CHỨNG NGHIỆM VÀ GIẢI THOÁT
LỜI CÁO LỖI
Những ngôn ngữ cùng dữ kiện lý tính được ghi lại trên sách
này gần với tự nhiên trong đời sống hàng ngày của tôi.
Tôi không dự định trước để viết một tập sách, không có chuẩn
bị và khi cầm bút tôi cũng không nghĩ mình phải viết gì, viết như thế nào.
Không có sự sắp đặt các chương, mục, không phân đoạn, để báo hiệu cho người đọc
một trước ý về chủ đề.
Sự kiện viết lách và diễn đạt như thế với thông lệ là không
đúng. Đó là điều thứ nhất tôi cần được các bạn đọc thứ cho.
Trong khi viết, tôi có sử dụng những danh từ, cùng những cụm
từ mà có lẽ ít ai sử dụng. Cách sang hàng cùng chấm câu các đoạn cũng không
được hoàn chỉnh theo tu từ pháp. Đó là điều thứ hai, xin các bạn đọc thứ cho.
Khi ngồi vào bàn viết, trước đó một vài phút, tôi cũng không
biết mình sẽ viết gì, tôi viết lách giống như làm thơ. Tôi tự để dòng chảy tư
kiến đi ngang, điều gì nổi bật lên tôi ghi lại. Điều này đối với tôi thì tự
nhiên, nhưng đối với bạn đọc đôi khi là lạc hướng.
Với tôi giống như người hạ một nước cờ, có khi người ngoài
thấy được mà có khi không biết nước cờ đó đi về đâu. Từ nước cờ đặt xuống cho
đến nước kết, vận tốc xô đẩy trong đầu của đấu thủ (kỳ thủ) thì rất nhanh, mà
người ngoài cuộc thì phải chờ rất chậm.
Dù sao thì những điểm
bị lạc hướng, không giáp mối liền lạc trong mạch văn đó, xin các bạn tha thứ
cho, là điều thứ ba vậy.
Điều thứ thư, khi đọc lại sách này, tôi có thể
biết được là “có - lẽ” người viết muốn giới thiệu về những cảm nhận hạnh phúc.
Người viết muốn trình bày những chứng nghiệm của mình về TỈNH THỨC và muốn cùng bạn đọc làm một cú
nhảy vào vùng trải nghiệm cái VÔ HẠN mà người đã đến gọi là GIÁC NGỘ
Muốn viết những điều
mà không thể viết, muốn giới thiệu những điều mà người ta không thể hiểu, đó là
điều đi quá xa. Với bạn đọc, tôi có điều chưa đủ, xin các bạn với tâm từ và
rộng lượng không cố chấp, cho người viết được nhận những điều không tới nơi đó
vậy.
Viết là ghi lại điều
đã NGHĨ. Nghĩ là hiện về kinh nghiệm đã qua. Kinh nghiệm đã qua, nhưng không
qua trong cái mập mờ của hiện tại.
Hiện tại một vô hạn
rỗng suốt, có thể điều động, vận chuyển cái đã qua và cái chưa đến.
Hạnh phúc là thị kiến
thênh thanh, vượt được thời gian và hạn lượng, cùng với không gian trực thức
tạo hình qua cuộc sống, hoàn toàn độc lập mà không cô độc, tuyệt đối tự do mà
không gợn lên những bóng mờ kiêu hãnh (tự ngã). Đó là con đường một lần giải
quyết được tất cả, là con đường thơ mộng mà khả năng một kiếp làm người có thể
bước vào trong kỳ quan tuyệt hảo. Một kỳ quan mênh mông chưa từng có và không
còn nữa những lẫn lấp ưu phiền của mù sương và…hối hận.
NGƯỜI MÂY TRẮNG
TƯ DUY
(Từ nguồn cội)
Rọi tìm gốc ngọn suy tư
Lối về trực cảm khởi từ nơi đâu ?
Vô thanh sâu lắng một màu
Vầng vầng cảm thụ hiện mau sóng tầm
Kết tinh từng chập từng âm
Hiện thành sắc thể hình danh tự bày
Khung trời ấn tượng liền ngay
Tạo thành quy định hướng ngoài hướng trong
Suy tư uốn ngọn lòng vòng
Biến thành sóng thức hệ trong hệ ngoài
Sở năng chia cách liền ngay
Chủ thể khách thể hiện bày giá biên
Tự làm tiêu cực liên miên
Thời gian tâm lý đường viền đóng khung
Không gian tù đọng vô cùng
Chiến trường xung đột mịt mùng ai hay.
CHỨNG NGHIỆM LÀ GIẢI THOÁT
Giây phút nào mà con người
đã đánh mất TÍN TÂM, là giây phút mà đê bờ - hạnh phúc bị vỡ tung, dòng chảy
của hồn nhiên thanh bình không còn nữa.
Con người sẽ bất hạnh và đã bất hạnh vì liên hệ và bám víu
vào những điều hư giả. Người ta không thể nhìn thấy được sự thật, vì trong lòng
không có cái THẬT. Trong một thời đại mà người ta không còn tin được chính
mình, thì làm sao tin được kẻ khác ?
Người ta không thấy được cái trước mắt, thì cái trước mắt “
đã chạy ra phía sau” rồi. Cái trước mắt không còn trước mắt thì cái trước mắt đã
trở thành sai lầm. Cái sai lầm không do bên ngoài, không do bên trong mà do từ
“KHÔNG THẤY”. Không thấy không phải là ta không có “CÁI THẤY” mà vì chúng ta
CHƯA BIẾT CÁI THẤY LÀ CÁI GÌ.
Chưa từng biết “CÁI THẤY” là gì, thì cũng chưa từng biết “CÁI
NGHE” là gì. Chúng ta thấy và nghe trong tiến trình sai trái. Toàn bộ quang
năng của chúng ta đang khiêu vũ và lộn nhào trong một bản nhạc từ một giấc mơ
dài lâu bất tận.
Những người nhảy múa thì thường ảnh hưởng làm bước đi nhún
nhảy. Cái chuyển động trong rung động tạo ra cái ĐANG-LÀ thấp kém. Câu nói điệu
chào trở thành hạ lưu mờ đục. Chúng ta gởi gấm cho nhau những tín hiệu màu sơn
và kèm theo một bình thuốc chuột.
Không có một tôn giáo nào lớn hơn dòng đời! Không có một
triết lý nào cao hơn cuộc sống. Chưa có một giáo chủ, một hiền giả, triết gia
nào không từ dòng đời mà GIÁC NGỘ. (Hiện tượng dòng đời là bí mật, thoát ngoài
sanh tử Niết Bàn - dòng đời không đối tượng).
Từ quá khứ tất cả tinh ba của nhân loại nói tiếng người,
không một ai không từng bị nhốt trong bóng đêm, từ cái bầu người mẹ hiền thân
thiết và cũng không ai chối từ sự trợ thủ của sấm sét bằng lửa của người cha mai hậu - Tiếng
“cha” chỉ hình thành sau hiện tượng, một âm tự vị lai nên gọi là “ mai hậu”.
Dòng đời trắng tinh và đỏ thắm đã pha trộn, chuyển giao cho
ta niềm vui màu hồng trên bước đường đi lên, đi ngang và đi xuống. Nòng cốt của
sự sống không phải từ xã hội. Xã hội là ngọn lửa bập bùng trong đêm, lan dần
biến dịch như đường bay của đàn sếu qua khung trời xa, vì sự sinh tồn và hủy diệt.
Bản năng của sự sống không phải từ những triết gia hay triết
lý - triết gia và triết lý là sự mỏng manh của những màn sương phủ dày trên sa
mạc, vì khi đêm tàn, ngày mới sẽ lên, mặt trời chói chang và sa mạc vẫn phơi
bày trong nắng.
Thực chất của sự sống và cuộc đời cũng
không phải phát nguyên từ tôn giáo, vì tôn giáo luôn ở phía sau cuộc đời và sự
sống. Tôn giáo là đòn bẩy làm bật lên và tách lìa những cây san hô mọc ngầm
trong lòng biển.
Tôn giáo là lời ru trong đêm trăng giữa một dòng sông đang
chảy xiết. Tôn giáo là cặp mắt kính bất đồng màu, để người ta thấy những hiện
tượng phân ly đa màu sắc. Tôn giáo cũng có thể là những bao bì vô cùng đa dạng
và không biết người họa vẽ nó đã gói gì bên trong - không ai biết; như thế,
những danh từ xã hội, triết lý, tôn giáo chỉ là những ngôn từ rất cô đơn từ ý
niệm.
Ý niệm là điểm khởi đầu của âm thanh và màu sắc. Ý niệm rung
lên làm cho âm thanh tụ lại . Ý niệm chất chồng những phân tử của thanh âm -
kéo dài thành thời gian. Thời gian được chiếu soi qua một vùng ánh sáng diệu kỳ
đen, trắng làm thành không gian và hình tượng. Tất cả rủi may, diệt sinh và
vinh nhục của kiếp người đều xuất dẫn từ Tư Duy. Rủi ro thay, khi ta biết rằng
Tư Duy là những cái chấm (…) lần lượt thành ra đường thẳng hay đường cong, có
giá trị gì khi ta dùng cái que vẽ một đường thẳng hay một đường vòng tròn trong
một bầu không gian vô tận. Trí tuệ là KHÔNG, là sáng không có tự thân và đối
tượng. Tư duy là qua kẽ hở rỗng bị thu rút vì bụi vẩn. Kinh xưa gọi là tiền
trần !
Như những món ăn không tiêu làm ta đầy bụng. Những KINH
NGHIỆM ĐẦY ẮP TRONG ĐẦU - làm đầu ta tăm tối. Kinh nghiệm là sự tích trữ một
cái gì đã qua. Kinh nghiệm luôn tạo ra sự bất an. Kinh nghiệm luôn tạo ra mô
hình chết. Từ bóng đen âm u mà trở thành sức nặng. Chúng cọ xát lẫn nhau, tự
thiêu đốt làm thành nhiều trục xoáy, làm che mất vẻ khinh thanh rỗng suốt và
thanh thản của dòng đời.
CÁI THỰC TẠI LUÔN KHÔNG HỀ KINH NGHIỆM. CÁI THỰC TẠI KHÔNG CÓ
TRIẾT GIA VÀ TÔN GIÁO, CHỈ THỰC TẠI LUÔN HIỆN TIỀN, SÁNG TRONG VÀ HIỂU BIẾT.
Như không gian chưa hề
vấy bẩn, sự vật trong không gian cũng không hề vấy bẩn. Những gì mắt thấy, tai
nghe va động và đổi thay, đều lặng thinh và trong sáng. Tất cả cái có sinh sẽ
hình thành chuyển giao và biến mất tất cả, như thế đều an nhiên, không dính dấp
gì đến suy tư và quan niệm.
Cái THẬT là như thế - Hãy nghe tiếng THẬT. Thấy THẬT là thấy
BẢN LAI. Ở đây không có chuẩn bị, sự Thiền định và suy nghiệm theo ngôn ngữ, mà
phải từ những điều nói trên và thoát ly ngôn ngữ. Nếu thật sự cẩn trọng chính
xác sau chuyển động xúc tác ở trong thì sẽ thấy!
Một em bé còn nằm trong nôi, nó chưa có sự xác định một điều
gì không bản ngã, nó không có trí phân tích, không giao động. Lòng nó như một
mặt gương. Ảnh tiếng đi ngang qua nó không giữ lại dấu đậm, hay đường mòn. Từ ba
tuổi đến năm bảy tuổi tâm nó như tờ giấy trắng. Những niềm vui trong sáng của
tuổi thơ, chúng ta ai cũng đã từng trải qua, nhưng chúng giờ đây không còn nữa.
Giờ đây đầu chúng ta “TRÀN ĐẦY SỰ NHỚ LẠI”, đầu chúng ta ngập
đầy những quá khứ và tương lai, đầu chúng ta như một máy điện toán đã nối mạng
toàn cầu. Bây giờ trong đầu của chúng ta không còn hình bóng của con chim bồ
câu trắng nữa. Đất đai đã cằn cỗi, hoa huệ ngoài đồng không trổ, tên của hoa
hồng chỉ cho một lùm gai đáng sợ! Nhưng những quả tim thì nóng lên, nhịp đập
bất thường. Khí quyển của tim đã trở thành áp suất nặng lề lo sợ, dòng sông
nước đã màu đen. Áng mây trời không còn rọi bóng như ngày xưa và những con cá
lăn tăn vui đùa giờ phải chui sâu trong bờ rêu rác.
Quả tim và khối óc của chúng ta đang hiện hình trên một dòng
sông ảo, những lo âu từ bộ đầu và mệt nhọc của quả tim là những nét họa của
khói mây trong bầu trời không ánh sáng.
Khoảng không gian tâm thức kia cứ vần xoay trong mờ tối,
ngưng đọng và hiện hình. Hình bóng lại chập chùng, tương tác, giao thoa. Vật từ
quá khứ đem về trong hiện tại; vật từ hiện tại phóng ảnh đến tương lai. “Cái
quá khứ, cái tương lai” Một bộ
mặt ĐANG LÀ trong hiện tại. Không gian teo lại như một chấm đen. Chấm đen dằng
co lôi kéo chạy dài như đường hầm bất tận.
Dòng sông đen một dòng sông đang chảy
Qua ống tròn mây khói âm u
Tiếng gào thét cuộc tàn phai chinh chiến
Con chim trời cõng nắng xế chiều xa …
Qua câu thơ trên ta có thể thấy “CHẤM ĐEN’’ một không gian
tạo hình đang chảy xiết. Chấm đen kéo dài như một ống khói chuyển động làm
thông tin. Dù cuộc chiến đã tàn phai, mà bãi chiến trường xa xưa, mãi thét gào
lên lời bi hoang uất hận. Những âm vang hãi hùng giẫy chết, cùng tiếng nhạc
quân hành dồn nén lẫn nhau tạo thành bức xạ của những tia lửa chiều nắng quay
thúc dục những cánh chim trời vội vã cõng nốt những tia nắng xế chiều ngày vào
nơi lặn tắt.
Rồi từng giọt thời gian cũng xói mòn chấm đen cho hình hài lổ
đổ, cho cây cảnh đơn hoa. Thời gian tí tách cho mây khói xa dần, để lộ ra một
mảnh trời chói nắng. Ngôn ngữ là mật ngữ, xin hãy đọc nhiều lần như một lời
thơ không thể giải thích theo kinh nghiệm được. Cái biến đổi mà đồng nhất chỉ
có thể trực diện . Sau cái hiểu là hợp nhất, bất nhị.
Đến đây, để khỏi những bậc cao minh rầy mắng (...), tôi sẽ
lần lượt xin nói rõ hơn: CHẤM ĐEN là cái ta chưa từng biết, cái không biết,
không thấy. Cái không thể biết, không thể thấy. CÁI KHÔNG SÁNG “cái tối”. Cái
tối không có nghĩa là không thấy gì cả, mà nó luôn thấy, có điều là nó thấy
sai. CHÍNH CÁI THẤY của nó TẠO ra SAI.
Vì nó thấy, có cái “NÓ”, có chủ thể, nên có cái đúng và cái
không đúng. Đúng và không đúng đều là cái sai. Chúng ta có nhãn quan là đôi
mắt. Đôi mắt là vật thể có Quang năng. Tuy nó có linh năng hơn đối tượng khác,
nhưng nó không khác gì với cái nó đang nhìn.
Đôi mắt chết và con chuột chết không có gì khác nhau. Đôi mắt
sống và con chuột sống cũng không có gì khác nhau là ở nhà cái nhìn, cái nhìn
không phải là con chuột. Cái nhìn của con chuột không phải là con chuột. Cái
nhìn của con người không phải là con người.
Nhưng vì sao, từ cái nhìn của con người mà con người
thay đổi? Từ cái nghe của con người mà con người thay đổi… Đó chính là MỘT CHẤM ĐEN: Người có
trí đều có thể biết rằng CÁI NHÌN –CÁI NGHE không phải là con người. Cái nhìn
cái nghe làm thay đổi đời sống, chính là vì đối tượng. Nhưng đối tượng không
phải là nguyên nhân mà nguyên nhân từ sự đánh giá. Đánh giá là tính xác
định thu nhập. Trong bữa ăn người ta có thể đánh giá sai về món gia vị, khi ăn
vào vị cay xé miệng, mới biết là có nhiều ớt. Thực ra, “ỚT KHÔNG CAY” Nhưng vì
cái miệng của ta bị cay. Vì ta không chịu nổi xúc giác này nên nó cay.
Tôi có ông cậu người Tàu có thể ăn ớt sim như ăn hột dưa! Con
Nhồng cũng có khả năng ăn ớt mà không cay! Cay, đắng, mặn, ngọt là những cảm
xúc sai biệt từ cách thưởng thức riêng của mỗi người. Thấy và nghe cũng như
vậy. Cái thấy giao đổi tinh vi hơn. Cái nghe lại càng huyền thoại hơn. Cái thấy
tạo hình. Cái nghe tạo âm.
Khi ta thấy một vật, vật đó hiện hình trong lòng ta.
Khi ta nghe một âm, âm đó rung động trong lòng ta. Âm thanh đó phát ra từ câu
nói của một người mà ta quan tâm. Hay như tiếng hát của một nghệ sỹ có tài, thì
âm thanh của tiếng nói đó đều có thể tạo hình trong ta cả. Trước đây khi tôi phát minh ra điều
này. Ta có viết câu thơ:
“Tai em
nghe nhẹ nhõm màu hồng
Mắt xem
miệng mĩm một âm thanh cười”
Vì khi nghe âm
thanh, ta có thể thấy ra màu sắc, và khi thấy một màu sắc ta có thể biết được
sự chuyển động của thô hay tế. Được phát minh ra cái THẤY hay NGHE không phải
là điều khó. Có người nói “Rất Khó”, tất lòng họ đã sanh ly họ không nói “Không
thể được”, họ không nói “Có thể được”; nội tâm của người này hoang mang mù mịt:
MỘT CHẤM ĐEN.
NGHE – THẤY – THẬT chỉ đến với người nào muốn biết thật.
Người muốn biết tất nhiên phải dè dặt, lắng đọng tâm tư. Xoay ngược chiều cái
CHỐT của tâm tư. Có những Thiền giả và Vô danh Tăng của đạo phật đạt được chân
lý này. Ngược lại những Thiền sư có tiếng tăm danh vọng thì thường không đạt
được. vì sao? Do vì các Thiền sư này rất “BÀI BẢN”. Họ rất coi trọng những pháp
thức kinh điển, những Công – Án chết lỗi thời. Họ thích dẫn chứng về hành động
và mẫu người quá khứ. Họ luôn tôn trọng những tiền liệt Tổ Sư. Họ rất sợ những
sai lầm và phạm trọng. Tất cả những động thái và hành trang đó chứng tỏ là họ
chưa ĐẠT ĐẠO.
Tôi sẽ nói rõ hơn về những dấu hiệu những thông tin và bản
lãnh của người Giác ngộ, Tỉnh thức.
Như chúng ta thường biết về những điều ĐÃ BIẾT vì chúng ta đã
biết nên chúng ta tự cho mình ĐÃ BIẾT. BIẾT là BIẾT về … Một cái gì, “ CÁI GÌ”
đó ta không biết đâu! Ví dụ như ta nhìn một đóa hoa hồng, hay một người con
gái; ta có thể tạm thời thấy được bề mặt của đóa hồng. Ta không thấy được đóa
hồng đó đang xê dịch và nội dung nó đang ở vị trí khác xa cái thấy của ta. Ta
thấy một bông hồng trước mắt, mà không thấy một cái gai trước mắt! Ta yêu bông
hồng ta không yêu cái gai của nó. Ta đã sai. Thật sự thì CÁI TÊN của bông hồng
còn không có, làm gì có một bông hồng trong ý tưởng của người ta đâu!!
Một người con trai đang ngắm nhìn một người con gái. Một lãng
tử phiêu du ngang qua cánh đồng đầy ngô xanh tươi mát, với bụng đói meo hắn
nhìn một cây ngô bụ bẫm. Hắn có thể nhìn vào trái ngô thon dài xanh mượt mà
nghĩ rằng: “Đây là một tác phẩm thiên nhiên, một nghệ thuật của tạo hóa hay từ
một kỹ thuật gieo trồng tiên tiến”. Hắn có thể nghĩ lung tung. Nhưng thực sự
hắn MUỐN gì?
Người con trai sau một tia nhìn có thể vê tròn hay làm dị
dạng người con gái trước mắt mình. Người con gái có thể biến người con trai
thành một luật sư, một lang băm, một tên cận vệ, một sát thủ hay một chiếc gối
ôm không chừng!
Chủ thể như thế nào thì khách thể như thế đấy. Trong sự sai
lầm và lẫn lộn giữa chủ và khách người ta có thể dễ chịu hơn sau một lớp bao bì
như Tình yêu, Hôn nhân, Hợp tác. Ta không bao giờ thích, hay chịu để cho người
khác dối mình, nhưng ta lại bằng lòng dối gạt ta một cách trớ trêu, sỗ sàng và
tăm tối.
Nói cho cùng ta cũng không thật biết: sự dối gạt đến với ta
từ lúc nào? Nếu nói rằng ta tự dối gạt thì có hai thằng : “TA” song sanh ra cùng
một lúc? Nói rằng cái
sai lầm nó dối gạt ta thì sai lầm là cái gì vậy? Đây chính là MỘT ĐIỂM ĐEN!
Điểm đen là CÁI KHÔNG BIẾT. Ai không biết ? Không biết cái gì ?
Nếu có người thông minh thì gỡ đi tiếng “Ai” và quăng
xuống dòng nước. Người thông minh hơn người trước thì bớt được đi Âm thanh “Cái
gì”!. Lại có một người siêu thông minh thì bỏ đi được cái “KHÔNG” cho đến bực
thành tựu thì KHÔNG CÒN CÁI “BIẾT”.
Trong tập sách hạt bụi đây mà nói ra điều này thật là quá
lớn, quá sớm và quá Lực – Chuyển – Giao. Giống như người ta muốn làm một phi
thuyền để chở quả địa cầu này ra ngoài khí quyển và qua khỏi mặt trời. Nhưng
không sao, có lần tôi nằm mơ thấy mình bay lên hư không thật cao, nói chuyện
với một người to lớn bằng mây. Vừa ý thức, tôi cũng thấy thân thể mình bằng
mây, cuộc giao tiếp thật sống động, đậm đà. Khi thức giấc người mây không còn,
nhưng ấn tượng và câu chuyện còn sống mãi đến khi tôi viết lên những dòng này.
Xin quý Ngài và các bạn hãy đọc tập sách này giống như tôi
nói chuyện với những người bằng “Mây”. Vậy nếu thân tôi không là mây thì cũng
khó gặp và nói chuyện với người mây được. Tôi đã vượt qua cái “thực tại” để
biến thành một giấc mơ. Tôi đã đổi cái không gian tầm nhìn, để biến thành một
không gian tâm thức. Tôi đã đổi tâm thức thành một nghệ nhân tạo hình.
Tôi đã đổi huyễn – hình – tạo – tác thành một bức họa không tên.
Và tôi đã đổi cái không tên thành ra ngữ - âm đây để cùng được tương giao
cùng các Ngài và các bạn.
Khi các Ngài và các bạn đọc những dòng chữ trong sách này,
xin đừng bảo là không thứ tự, không thể loại, không cú pháp và tu từ. Tôi không
biết gì cả! Tôi ở trên đỉnh núi này đã hai mươi năm. Chỗ tôi ngồi đang viết
đây, phía trước nhìn xa xôi của mình, trong khoảng giữa có những gì? Nhưng tôi
biết tôi đã đi xa hơn đôi mắt và đến cõi giới vô cùng.
Có bạn lịch sự hỏi tôi rằng: “Ngài nói rằng Ngài nhìn vào cõi
giới vô cùng, như thế thì tôi đang đứng đây, ở khoảng giữa của Ngài và cái vô
cùng, vậy Ngài có thấy không ?” Vâng, tôi có thấy, tôi đã từng nói chuyện với
bạn ở trong mơ, khi nãy đó : Chúng ta đều là bằng mây cả! Thân chúng ta là phù
vân, sương khói, vi vút ngàn tầm. Tiếng lời của chúng ta đã tràn lấn trong
nhau, dàn trải mông mênh vô tận! Nếu không thể ta làm sao hiểu nhau và nhận ra
nhau được!
Một bạn khác lại hỏi:“Ngài viết sách mà không có dàn dựng,
cấu trúc khung sườn chi cả, thì người ta biết đâu mà đánh giá xếp loại được?”
Bạn nói thế thì tôi sẽ xin lỗi! Tôi nói rằng tôi không biết
gì những cách viết nhà nghề đó cả !
Tôi ở trên núi cao, tôi có thể đưa bạn đi dạo rừng trên tầng
cao này một chuyến! Bạn thấy rõ ràng rằng trong khu rừng thượng đỉnh này có cây
hàng ôm, có cây nhỏ bé, có cây rất cao, có cây thật lủn mủn, có cây gỗ quý và
có cây thuốc quý, xen vào đó những cây bình thường… và có cả cây độc tính, lại
có dây leo đá tảng trên cây. Trong rừng còn có nhiều loại chim và thú, có hoa
đưa hương từ thung lũng và mây bay ở trên trời. Tôi và bạn cùng đi dạo trong
khu rừng thiên nhiên thượng đỉnh này, nãy giờ chúng ta thấy người như say sưa,
lòng ta nhẹ nhàng như xa thoát cõi đời. Tôi và bạn đều có thể lắng nghe tiếng
gọi của rừng sâu và tiếng của loài chim lạ. Trong các sâu lắng thanh tĩnh này
ta nghe rõ cả hơi thở hòa tan, tiếng tim đập nhẹ nhàng trong lồng ngực và hồn
ta dường như chơi vơi thoát tục!
À, mà tôi chưa nghe bạn
hỏi: Sao cây rừng lại to nhỏ lộn xộn thế này? Sao không phân loại loài
chim đưa vào lồng sống cho có thứ tự? Bạn cũng không hỏi tại sao không bứng
những cây gỗ quý và cây thuốc đi nơi khác? Và bạn cũng không phiền trách các
loài chim lạ, hoa xinh lại ở khuất cả trong khu rừng? Nếu không thế thì không
gọi là thiên nhiên?
Chúng ta đang sống trên mặt đất của địa cầu là một khu rừng
thiên nhiên giữa lòng vũ trụ vô vàn mênh mông biến dịch! Mỗi người chúng
ta như một cây rừng sinh lên và tàn tạ. Tư tưởng chúng ta như những con chim
líu lo, hót ca và réo gọi. Những thành kiến cố thủ của chúng ta như những tảng
đá lẫn lộn ở trong rừng. Phát minh của chúng ta như những bông hoa và sự tàn
hại trong lòng chúng ta như loài cây độc.
Gốc rễ của cây rừng đang bám vào một bề mặt của quả đất đang
quay. Tư duy và cảm thụ của chúng ta cũng đang tự quay và quay cuồng trong trục
lớn của nhân loại. Ngoài không gian mười tỷ năm ánh sáng thì quả đất này như
hạt bụi mà thôi !
Chúng ta gặp nhau tùy cảm hứng và nhu cầu tâm trạng, đồng
phát ra những tín hiệu âm thanh. Đó là sự cọ xát tự trong sâu thẳm làm tóe tung
ra làn hơi, tiếng gió… đung đưa réo dụ lẫn nhau vào cõi miền viễn mộng. Một
cuộc phiêu lưu vô tính dị thường không biết đâu là bờ là bến …
Trong doanh thương và chuyển vận người ta có thể thay đổi mặt
hàng, thay đổi ga tàu và cửa khẩu. Người ta không ai có thể tính trước được sự
chính xác cái thay đổi vượt qua trong cuộc đời. Ta cũng không thể tính trước
lát nữa ta sẽ gặp người thân, người lạ, kẻ ghét, kẻ ưa của chúng ta là bao
nhiêu? Vị trí và sự chung thủy của người yêu, là quả trứng gà để trên đầu nón
lá.
Hãy vứt bỏ cảm giác lâu bền về cái “CÓ”. Hãy bỏ những quy
định thành kiến ở trong lòng – và hãy để lại bên ngoài chiếc nón bài thơ và quả
trứng trong khi ta thả bước nhàn du vào trong khu rừng thiên nhiên dã ngoại.
Bất cứ giờ phút nào trong ngày, chúng ta đều có thể nhận được
những tin tức bất an từ thế giới, nếu ta biết lắng nghe ta cũng có thể nhận
được những thông tin bất an của chúng ta.
Những tín hiệu cấp báo liên tục trong lục phủ của ta. Những
co giật không ngừng của thần kinh, những hơi thở ngắn dần và tiếng tim loạn
nhịp. Tất cả dấu hiệu bất toàn, khốn đốn như thể đang thôi thúc, nhưng ta luôn
tránh né, chạy trốn và trùm chụp lên trên nó những chiếc mền kín bưng, lại cố
vẽ lên những đồ hình hoang tưởng bạo hành và đầy dục tính! Có những lúc ta la
ré khẩn cầu như tiếng heo gần kề dao thớt …
Nếu may được qua di, ta lại quên bẵng, chẳng còn nhớ gì cả!
Rõ ràng là ta không biết đang hiện có một con đường. Một con đường của
thoát ly – là sự tỉnh thức.
Tỉnh thức là sao?
Ví như trong giấc ngủ miên man, ta giật mình tỉnh dậy, giây
phút đầu tiên ta có cái biết thoáng chớp! Ta biết những gì vừa trải qua và
những gì trước mắt. Cái trải qua là cảnh của mộng, lòng ta còn bàng hoàng xao
xuyến, nhưng mắt tai ta “trực diện trong cái nghe nhìn” (chưa phân biệt).
Nhưng ý thức lại khởi lên làm ta nhớ lại (theo thói quen), ta bắt
đầu định vị rồi phân chia từng món một. Thế rồi ta tiếp tục làm một giấc
mộng mở mắt, hằng hằng mọi sự. Tỉnh thức sau cái nhắm mắt chiêm bao thì
rất dễ, mà tỉnh thức sau cái MỞ - mắt – mộng – đời thường thì rất
khó!
Không phải ta
không làm được mà gọi là khó. Khó vì ta thiếu ba điều để vô hiệu hóa cái khó
kia:
Điều thứ
nhất ta không biết sự tha thiết
muốn tỉnh thức kiếp người khổ đâu trầm thống.
Điều thứ
hai vì ta không có kỹ thuật tốt, yếu quyết tinh tường. Hoặc ta đang bị
trói buộc bởi những pháp tu mà không bao giờ được giác ngộ.
Điều thứ
ba là ta không
có Thầy hướng dẫn. Không phải vị Thầy nào cũng có thể làm cho ta tỉnh thức
được. Vị Thầy đã giác ngộ thì mới làm ta tỉnh thức được. Nhưng nếu ta không hết
lòng tận tụy với Thầy, thì Thầy sẽ không nói thật cho ta nghe được. Vì ta chưa
tận cùng kính trọng và hiến dâng cho Thầy, thì lớp vỏ bản ngã của chúng ta không
cho ta thâm nhập được lời nói của Thầy. Đức tin là chất lưu dẫn, lòng kính
trọng là lực hợp nhất và niềm thân yêu cùng Thầy là đồng hóa cùng chân lý mà
Thầy có thể trút vào ta.
Một người đến
giai đoạn muốn giác ngộ cũng có khả năng biết được vị Thầy nào mình cần đến.
Một người sắp tỉnh thức có linh tính biết được vị Thầy đã tỉnh thức. Cũng như
người có một phần chân lý trong tâm thì mới phát tâm hướng tìm chân lý và người
đó cũng biết cái đích mà mình tìm đến. Vì thế phần vi tế đó chỉ có giữa vị Thầy
và người học trò mới biết được. Ngoài ra, người tha thiết, kính thành và có
chút sáng suốt mà không gặp đúng Thầy thì cũng có thể hiểu được – không hề gì –
người đó lại cố công tìm kiếm một vị Thầy khác, cuối cùng cũng gặp thôi.
Bây giờ ta hãy
biết rõ ràng hơn về sự tỉnh thức. Tỉnh thức là tiền nghiệm tâm lý trước
khi đạt đến giác ngộ. Muốn tỉnh thức ta phải có chánh niệm. Chánh niệm là ý
thức không dụng tâm trong tất cả hành động hàng ngày của chúng ta. Khi
đi đứng, lúc ăn, ngủ, vệ sinh, giao tiếp và làm việc lao động về tay chân hay
trí não. Sáng ngày vừa thức dậy ta ý thức được sự yên lặng tỉnh táo biết rõ
giấc mơ vừa qua, kiểm soát được hơi thở và ngồi dậy bước xuống một cách tỉnh
táo nhẹ nhàng. Khi bước chân xuống, Chân xỏ vô dép trái hay phải ta đều ý thức.
Những giây phút
đầu ngày, cho đến khi lên giường ngủ, tất cả động tác thân, khẩu, ý, đều không
thoát khỏi sự lưu tâm tĩnh lặng và trực thức của ta. Con đường này tôi đã đi
qua như thế. Tỉnh thức không phải một lần mà sẽ trải qua nhiều lần, nhìn từ nhiều
góc độ và nhiều sự kiện được phát minh trong thời gian không nhất định.
Tôi xin kể những
điều phát minh đã xảy ra nhiều lần, trong những thời gian sai khác. Hồi còn trẻ
tôi đã đi xa, ba năm mới về lại thăm gia đình. Lâu ngày, má tôi rất thương nhớ,
nên khi ra đi bà không đành lòng. Bà nắm tay tôi và khóc. Cuối cùng tôi cũng
rứt áo ra đi. Má tôi đứng tựa cửa nhìn theo tôi với vẻ mặt buồn bã, lặng yên.
Đường quê miền Trung lúc đó không có xe, tôi và một người bạn phải đi bộ. Đi bộ
năm sáu cây số tôi mới nhớ là mình đã bỏ quên giấy tờ ở nhà. Thế là phải trở
lại con đường cũ, trên đường về tôi thấy rõ hình ảnh của má tôi khi ra đi, nét
mặt buồn thương của mẹ già làm tôi cảm thương áy náy! Nhưng khi đến nơi vừa
bước đến cửa, tôi bỗng giật mình vì má tôi đang ăn cơm với gia đình thật vui
vẻ. Hình ảnh buồn thương và cảm xúc về má trước đây không còn lâu, còn đang
trìu mến trong lòng và giờ đây một hình ảnh bỗng nhiên hoàn toàn đối nghịch!
Một ý nghĩ, hai hình bóng hình tương phản kỳ lạ, nhập vào nhau trong tôi làm
tôi “VUỘT THOÁT”! Còn rất trẻ, lần đầu tiên tôi có được một trực nhận về tình
cảm phi tính này. Một loại hiểu không nhân. Cũng nhờ cái kinh nghiệm vô giá này
mà về sau tôi phát minh ra được nguồn gốc của cảm xúc, tình yêu và dục tích.
Câu chuyện
thứ hai thì đơn
giản hơn nhiều nhưng chiều sâu thẳm của nó thì cực kỳ quý hiếm. Tôi thường đeo
một chiếc đồng hồ trên tay cả ngày lẫn đêm. Một hôm có việc gấp phải vội vàng
xuống núi. Trong tâm tôi nghĩ: không biết mấy giờ rồi? Ý nghĩ và hành động thật
nhanh, tôi đưa tay lên nhìn. Tay không có đồng
hồ! Một kỳ diệu như ánh chớp! Tôi bắt gặp TÂM TÔI - cái “ tâm của thời
gian và không tưởng”. Tôi lặng yên, đứng lại, cõi lòng như trút sạch,
lắng sâu và hiểu.
Câu chuyện
thứ ba, là một
tai biến, nhưng có khả năng lớn và như tiếp cận được với con đường. Ngày xưa
tôi rất thích tụng kinh Kim Cang, Bát Nhã. Tôi thường nói về TÁNH KHÔNG. Tôi có
một ngôi nhà để làm nhang, có đủ nhiên liệu và dụng cụ, vốn liếng ít ỏi của tôi
đều ở trong đó. Một hôm bỗng ngôi nhà bốc cháy, đám cháy thật nhanh và dữ
dội…Có vài người xung quanh múc nước đến tạt vào đám cháy! Thoạt đầu ý thức
cháy và chữa khiến tôi lật đật chạy ra. Nhưng khi chợt nhìn thấy ngọn lửa đã
bốc cháy cao, tôi khựng lại. Một tâm trạng lạ lùng bỗng chốc ngập tràn, mênh
mông khó tả. Thì ra là cái sở hữu này (nhà nhang), ngọn lửa đỏ rực kia và Ý
THỨC VỀ TÁNH KHÔNG của tôi đồng một lượt không trước không sau, đều bốc cháy.
Không phải ngọn lửa hoàn toàn do ngọn lửa cháy nhà này đốt – mà chính có một
ngọn lửa không màu sắc. Năng lượng vô hình nào đó tự chuyển giao và tiêu tan
chính nó. Ý thức về tính không của tôi đều thành KHÔNG – TÍNH RỖNG SUỐT hân
hoan (chính kinh nghiệm về sự giác ngộ về sau cho tôi).
Để đúc kết trọn những kinh nghiệm này, tôi nói thêm Câu
chuyện thứ tư.
Một hôm trời đã xế chiều, vì hơi mệt mỏi trong người, tôi lên
giường nằm, đi vào giấc ngủ bao giờ không hay. Trong mơ tôi thấy mình đang đi
dạo bên bờ sông vào buổi sáng thật đẹp trời, ánh nắng ban mai chiếu xuống dòng
sông thật tươi mát, mặt nước lấp lánh màu bạc, sóng lăn tăn trong làn gió nhẹ.
Tôi thấy cả bên kia sông nhưng đọt dừa đung đưa, rọi bóng xuống dòng nước. Dòng
sông êm đềm trôi chảy trong buổi sáng thật tươi vui. Chợt tôi giật mình thức
dậy, ánh nắng chiều đã gần tàn … Vừa mở mắt, cảnh ban mai vẫn còn sinh sống
tươi tắn trong lòng, lại chạm vào một hiện tượng không gian ngược lại! Trong
cái thực và mộng thu rút lẫn nhau, chạm vào một cái gì như là nguồn cội … Bỗng
nhiên tôi vụt thoát ra ngoài cả thời gian và không gian – trong cái vô phân
biệt nguyên sơ đó, không gian hình tượng và không gian tâm thức, thời gian hiện
tượng và thời gian vận tốc của tâm tư, đều vuột thoát từ kinh nghiệm của giấc
mơ chiều nay. Tôi đã chứng nghiệm được thật tính của thời gian. Thời gian và
không gian là đồng nhất.
Thời gian là sự giãn nở của không gian. Không gian co
duỗi thành thời gian và cả hai đều từ tâm sanh cả.
Qua bốn mẩu chuyện ngắn này có thể nói lên được bốn góc độ
của sự tỉnh thức đời người.
Câu chuyện thứ nhất là: Sự thức tỉnh về cảm xúc (thụ)
Câu chuyện thứ hai là: Thức tỉnh được cái giả tưởng (Tưởng
– tượng hình)
Câu chuyện thứ ba là: Tỉnh thức được cái “Không” (rõ được
hữu và phi hữu)
Câu chuyện thứ tư là: Tỉnh thức về sự vận hành của tâm
thức biến (Tính nhị nguyên, sinh ra Thời và Không).
Như trên, ta có nhiều cách để tỉnh thức. Tâm ta luôn bám víu
vào hiện tượng và tình cảm.
Hiện tượng và tình cảm là những ấn tượng, cảm xúc ở trong tâm
ta như chùm gởi đeo bám vào chùm cây thích hợp. Như cái răng sâu, gai móc không
dính gì cái ta và của ta, nhưng vì không rõ nên ta rất sợ mất nó. NÓ đã đồng
hóa trở thành cái TA. Cho đến một móng chân thôi, một cọng tóc rơi ta cũng nghĩ
là “CỦA TA”.
Tỉnh thức là nhập được vào lẽ thật. Tỉnh thức là thấy rõ được
cái nguyên sơ. Tỉnh thức làm mới lại tất cả tư duy. Tỉnh thức là tươi mới dòng
nước tâm. Tỉnh thức tạo năng lượng vững bền cho cuộc sống. Tỉnh thức đạt được
cái nhìn sâu - ổn định và đã cận kề con đường Giác Ngộ (kiến tính).
Ngược lại với tỉnh thức là tâm đam mê, say đắm, thủ giữ cái
vô thường, chấp tự ngã và lý luận nhị nguyên.
Trong khoảng giữa thì, người ta tạo ra những trò chơi tương
đối, như nghệ thuật, văn chương, triết lý, ẩn dật, hưởng thụ, khổ hạnh, thăng
hoa và tu tập nhiều pháp môn sai khác. Pháp môn là một pháp thức hướng dẫn hành
trì để mong được một thành tựu hay một kết quả nào đó.
Từ lòng mong muốn, nên có sự gia công. Từ quán tưởng, Thiền
định cùng những thực tập khó khăn đều đem kết quả như người ta mong muốn. Nhưng
để được giác ngộ và được tính BẢN LAI thì những phương tiện tu tập không đáp
ứng được.
Tôi sẽ tuần tự trình bày về Giác ngộ và con đường. Các bạn
tin hay nghi đều không sao cả! Mong các bạn lắng nghe! Hãy cẩn thận trong sự
bình tâm. Nếu các bạn nghĩ tôi nói sai, hay nói đúng đều được cả! Chỉ cần các
bạn theo dõi chính mình và thấy được những gì xảy ra trong tận cùng sâu kín
nhất. Thấy được cái bên ngoài hay cái bên trong đúng lúc đều là một cái thấy.
Nghe cái bên ngoài hay cái bên trong đúng lúc đều là một cái nghe. Thấy, nghe
đều là TÍNH BẢN LAI rỗng lặng, sáng suốt. Trong sự khởi sanh, tư tưởng các bạn
đừng nghĩ khó hay dễ. Bạn hãy tin rằng mình CÓ KHẢ NĂNG GIÁC NGỘ.
Nếu bạn nghĩ mình là Phật, nghĩ đó không sai! Bạn nghĩ mình
là một phàm phu tục tử, bạn sẽ sai lầm! Bạn nghĩ mình là Phật, bạn sẽ là Phật.
Bạn nghĩ mình phàm phu, bạn sẽ sẵn sàng tạo nhiều bất hạnh.
Đứng trước bờ biển mênh mông, bầu trời trong sáng lặng yên,
bạn cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn, bạn sẽ trở thành cô độc và cô đơn thật. Bạn
nhìn thấy cái mênh mông vĩ đại kia, bạn cảm thấy khái hùng tâm, ý chỉ tự sinh,
bỗng thấy mình là một đại trượng phu, đầu đội trời, chân đạp đất nào thua kém
một ai! Cùng với cái mênh mông, rỗng lặng, mất hút tầm nhìn, tâm hồn thoát
nhiên trong suốt! Bỗng chốc bạn mất mình hợp nhất hư vô.
Cái thấy được nhất như là tâm nhãn tràn đầy cõi vật. Cái ta
trong khoảnh khắc đã biến mất vào biển trời vô hạn, một trạng thái lặng thinh
và chuyển động, tạo nên một khoái lạc khôn lường. Chỉ một cảnh giới mà khiến ta
có nhiều trạng thái tâm. Tâm bạn cô đơn hay hào khí, tiêu cực hay tích cực, nhỏ
bé hay mở tung đều từ chỗ ta quyết định. Trước hết ta phải hiểu Giác ngộ có
nghĩa là: Tỉnh thức khỏi cơn mê, thấy được cái sai lầm, chọn được chỗ vượt qua.
Biết được cái sai lầm không còn dính dấp. Thấy được chỗ thoát ra khỏi phiền
nhược, hiểu được cái không tên v.v…
Ta thấy được những sự tỉnh ngộ trong cuộc sống về tình cảm,
qua vấn đề giới tính. Một cậu con trai yêu một cô gái thật lòng, luôn dành tất
cả ưu tiên cho cô gái, luôn săn sóc và thương yêu. Thế nhưng một ngày nọ khi
bắt gặp cô gái trong vòng tay một người con trai khác, anh chàng bị một cú sốc
thật sâu xa. Vốn là người có tri thức cao, anh ta không phát tác một cách thô
bạo tầm thường. Nhưng lòng anh đã vỡ, khác nào quả bong bóng đang căng tròn
trịa, bỗng bị cây gai đâm một lỗ to. Trái bóng trở thành xẹp lép, không còn một
tí hơi nào. Về phần tâm lý nếu một người tầm thường sẽ bị điên giận hoặc bạo
hành hay trả thù. Nhưng người con trai này bản chất thanh cao, tâm tình tế nhị,
lại thường biết lắng nghe sự dao động ở trong lòng… nên nhân sự việc này làm anh
tỉnh ngộ! Tỉnh ngộ ở đây có nghĩa là anh đã thấy được: “Cái tình cảm kia
chỉ là một ảo tưởng và hy vọng khổ đau”. Anh dửng dưng và trồi lên
những lượn sóng, không thể bị nhấn chìm. Sự tỉnh thức này là Giác ngộ về tình
yêu.
Trước đây có một nhóm người rất hung bạo và bất lương, một
hôm rủ nhau đi đánh cướp một nhà giàu. Chúng lấy được rất nhiều châu báu, cùng
đưa lên một ngọn đồi để phân chia, nhưng không đồng ý phần mình nên khởi lên
tranh giành và chém giết lẫn nhau. Cuối cùng chỉ còn lại hai người và họ bằng
lòng chia đôi. Trước lúc bỏ của báu vào bọc để lên đường, một người đề nghị: “
Anh hãy lấy ít tiền đi mua rượu thịt về đây ta ăn mừng chiến thắng về sự phát
tài này, rồi ta sẽ chia tay”. Người kia thấy phải, liền đi xuống quán để mua.
Khi cầm rượu thịt trên tay anh này suy nghĩ: “Tội gì mình để cho nó chia! Hãy
bỏ vào rượu một ít độc dược, thì mình sẽ lấy hết!” Nghĩ sao làm vậy. Anh chàng
ở trên đồi cũng thâm hiểm không kém chi, anh ta tính: “Ta hãy chờ ở chỗ bụi rậm
kia, thằng cha về sẽ cho một dao, thì mình sẽ trọn gói!”. Khi anh kia vừa về
gần tới, liền bị một dao, hồn lìa khỏi xác. Anh này xách túm rượu thịt đến
rương châu báu, cười to ha hả, thỏa thuê một mình ăn nhậu, vừa qua được hai
chén, liền ngã nhào trợn mắt, rồi đứt hơi!
Một người đàn ông du ngoạn ngang qua ngọn đồi, thấy cảnh
tượng đổ máu đầu rơi và hòm châu ngọc, thì đoán biết được việc gì đã xảy ra…!
Anh ta đem các xác chết chôn vào một nơi kín đáo và đặt luôn hòm châu báu vào
đó lấp đất rồi ông ta khấn rằng: Lòng tham vọng đem về những gì không phải của
các anh, làm các anh vong mạng. Của báu này là nhân bất hạnh, các anh không hề
oán thù mà có thể tàn hại lẫn nhau là vì những thứ này. Bởi các anh dù có
chém giết nhau, thì còn phải gần nhau. Nếu các anh biết chút ít về tình
thương và hiểu được điều này, thì các anh khỏi phải làm kẻ sát phạt trong loài
quỷ đói và được tự do. Nói lời chú nguyện xong, rồi người khách rời bỏ đi.
Ông khách nhàn du này là người đã Giác ngộ về lòng tham. Tham
là một loại vius của tâm. Tâm có loại tham trùng này thì tâm sẽ mất tự do, bất
an và hạ đẳng. Người ta biết thế nhưng không loại trừ được tham vọng là vì
người chưa Giác ngộ. Giác ngộ được lòng tham sẽ trở nên vô thượng, cao nhã vô
cùng. Giác ngộ được về cảm xúc và tình yêu, người ta sẽ trở nên thanh khiết, trong
suốt và sâu xa.
Tham và ái là hai mặt của một cặp song sinh, từ bóng đen tự
ngã. Giác ngộ được tự ngã là rút được cái chốt, để dòng chảy bất sinh lưu
thoát. Nhưng Giác ngộ là cái gì? Và làm thế nào để được Giác ngộ? Đó mới là
trọng tâm mà ta cần phải biết!
Lòng tham, nóng giận và yêu ái đều có tướng riêng của nó. Khi
ta thích một cái gì, cái đó trở thành hình ảnh sống trong ta. Sự ưa thích nồng
cháy, hình ảnh đó tràn ngập cả tâm ta. Tâm ta là vật hóa. Ta mất tự do và tự
chủ. Kết quả ngược lại với cái thật và hạnh phúc của ta. Như một cái nhà vô
chủ, khách đến và đi, tự do, vô ơn và vô trật tự. Những người có đạo đức và
nhân cách là những người có tự trọng làm cho mình có đặc tánh tự chủ và khôn
ngoan. Nhưng điều đó rất tương đối. Trong bản chất có sự dồn nén, ức chế, phỉnh
lừa và sợ hãi. Người Tỉnh thức, Giác ngộ thấy được tính bản lai của mình, người
đó đi rất xa, biết được con đường, đi trên con đường và vượt qua con đường.
Trước hết các bạn nên nghe và ý thức về những điều như thế!
Các bạn phải có lòng tin về sự thật (chân lý), các bạn cố gắng biết được vì
sao? Do đâu lại có người nói ra suôn sẻ? Tại sao họ lại có khả năng diễn dịch
về chân lý? Tại sao mình phải đắn đo suy nghĩ rồi cân nhắc từng chữ, từng câu
mà nói ra vẫn sai? Bằng chứng là sau đó mình hối hận, mình vẫn không tin được
điều mình đã nói!
Người có khả năng thấu suốt là người có SỰ KHỞI ĐẦU TRONG
LẮNG NGHE, người biết được sự lắng nghe và bằng lòng trong chỉ dẫn của một vị
Thầy. Bằng lòng trong chỉ dẫn của một vị Thầy, là điều rất may mắn, là đại nhân
duyên, là điều ta có thể mất mình với vị Thầy để được sự chứng nghiệm. Một
người tầm đạo, phải biết rằng giá trị và tầm quan trọng đó có thể đánh đổi tất
cả những gì trên mặt đất. Đó là giá trị của sự chứng nghiệm tỉnh thức và Giác
ngộ. Có ý thức rõ ràng về con đường, ta mới bước lên con đường vững chãi có ý
thức và mong được hạnh phúc, ta mới có hạnh phúc! Biết quan trọng duy nhất, chỉ
có tỉnh thức mới làm ta thoát ly sự ngờ nghệch, vô minh lầm lạc. Biết rằng chỉ
có giác ngộ mới thoát khỏi mê tín. Giác ngộ là trí tuệ nguyên sơ của thức tâm
ta. Sự lấn tràn của tuệ giác đưa đến thoát ly mọi sự đóng khung quy định của
cuộc đời và tôn giáo.
Khi giải thoát, phục hồi được bản tâm, thấy được cái bất sanh
bất diệt, thì tất cả danh từ ĐẠO và hình tướng cũng đồng như tất cả hiện tượng
trôi chảy trong suốt, thảnh thơi. Người ta có thể giải quyết mọi vấn đề một
cách ổn thỏa không có sự nghi ngờ hay lẩn tránh. Chúng ta cũng cần biết không
phải ai cũng giác ngộ như nhau, giống nhau và bằng nhau trong một sự kiện xảy
ra, cũng không phải trong một thời gian hay không gian nào nhất định.
Xin phép các bạn cho tôi được trình bày sự giác ngộ ở đây qua
ba phương diện:
1. Giác ngộ trong nghe và thấy.
2. Giác ngộ trong hành động (gồm đối xử và không hận
thù).
3. Giác ngộ sâu
sắc qua thân khẩu ý.
A. Giác Ngộ trong Nghe
Hàng ngày chúng ta nghe biết bao nhiêu là âm thanh, những
điều chúng ta cần nghe và không cần vẫn nghe. Nhưng chúng ta chưa từng biết
tính nghe ở chỗ nào? Ta nghe hay là ai nghe? Luôn luôn ta bảo là mình nghe,
nhưng có nhiều lần ta “ không có ý” nghe. Ta “không lắng” nghe nhưng ta vẫn
nghe! Một tiếng động, một giọng ca, tiếng chim hót, một làn gió, một giọt nước
rơi, ta đều biết được! Đó là cái nghe BẢN LAI của ta. Ta “cố ý” nghe, ta nghe
về ý nghĩa. Ta muốn nghe âm nhạc. Ta nghe cả cảm xúc, nhưng ta không có ý nghe
trong lúc ta vô tư – thì lúc đó là cái nghe BẢN LAI của ta. Chúng ta muốn giác
ngộ tính bản lai của ta trong cái NGHE, thì chúng ta không được mê âm thanh, dù
âm thanh có ý nghĩa hay không có ý nghĩa. Nếu ở gần đường phố, ta có thể nghe
âm thanh vút qua khi một chiếc xe chạy nhanh trong đêm khuya. Âm thanh chạy qua
rồi để lại trong ta “MỘT KHÔNG GIAN YÊN LẶNG”. Ta cần phải thực tập rất nhiều
và lâu, qua những loại tiếng động nhanh, cho đến khi CÁI KHÔNG ÂM THANH tụ lại
như một hiểu biết rõ ràng về cái không.
Khi nào ta nghe rõ ràng được mọi âm thanh đều mất hút trong
cái không vắng lặng này, đó là sự tiến bộ. Rồi đến lúc giữa những tiếng động ồn
ào mà ta vẫn nghe được cái vắng lặng hư vô cùng khắp. Thì ta đã thành tựu trong
cái “KHÔNG” có giá trị. Thông minh hơn ta vượt qua “Ý THỨC” về cái KHÔNG này.
Thì đó là lúc ta đạt vào được tâm điểm của không tính bản lai. Từ
đây, khó tìm được vị Thầy chỉ thêm cho ta, mà chúng ta phải tự siêu trong hội
nhập tinh vi vào BẢN LAI ta. Trong THỰC TÍNH không có cái nghe hay không nghe.
Thì cái thể nghe của ý thức và không ý thức sẽ bằng nhau. Như thế NGHE VÀ KHÔNG
NGHE BẰNG NHAU, vượt ra ngoài khái niệm suy nghĩ và ngôn từ. Đó là cái GIÁC NGỘ
LỚN VỀ TÍNH BẢN LAI qua NGHE.
Thấy
Thấy là tính trống không, sắc màu hiện trong cái trống không
này có ý thức nên gọi là THẤY. Ta hãy thấy một đối tượng hay một vật thể qua
ngang mắt. Đừng đánh giá phân biệt nó. Rồi – hãy yên lặng thấy trong tâm. Hãy
thấy hình ảnh đó nổi lên trong tâm. Biết nó đến trong khi tiếp xúc. Thấy hình
ảnh hay vật thể trôi qua rồi biến mất. Trả về cái chưa thấy. Cái chưa thấy
không mong chờ, là cái KHÔNG – không phải không trơn – mà có hiểu biết lặng
yên.
Giác ngộ về TÍNH THẤY,
là chộp được “KHOẢNG GIỮA” CHỦ VÀ KHÁCH. Thị kiến khi nhìn cảnh mà không tâm,
thì cảnh tượng như mơ như thật đều dung thông rỗng lặng. Thấy được cảnh, trong
cái tịnh lặng không tên. Cảnh trí lặng thinh sống động không chán không ưa – là
đã đạt cõi miền GIÁC NGỘ VỀ CÁI THẤY rồi vậy.
B. Giác ngộ
trong Hành động (gồm đối xử và không thù hận).
Hành động là điều
bí mật nhất mà rất ít ai ngờ tới, như ta đưa lên một cánh tay, hay dơ chân để
bước tới.
Có khi nào bạn tự hỏi: Từ đâu ta bước chân tới? Do gì ta đưa
tay lên? Bạn sẽ sai nếu bạn bảo là: Tự mình muốn thì mình dơ chân lên, bước đi.
Mình có ý nghĩ đưa tay thì sẽ đưa tay ra.
Nếu được an ủi, thì bạn chỉ trúng được một con số chót tận
cùng mà thôi. Một số, để so với tất cả số được độc đắc thì không biết đến bao
giờ bạn mới đạt được.
Bao bì dù có kê khai được món hàng, cũng không bao giờ dính
dấp đến cái ruột, nội dung của nó.
Tư tưởng, ý thức không đủ liên hệ trong tư thế của hành động
đấu! Nếu ta muốn hiểu thêm thì tư tưởng, ý thức cũng là một hành động rồi.
Nhưng bạn không thể ngưng tụ mãi trong một tư tưởng hay một ý nghĩ. Ngay cả một
xúc động, một cảm giác cũng không bao giờ yên. Chúng không đứng một chỗ, không
dừng lại để cho bạn điều động.
Nếu bạn thấy được tư tưởng, những cảm xúc hay tri thức thì
không bao giờ bạn cho những thứ ấy là Bạn (TA) hay của bạn (CỦA TA). Muốn Giác
ngộ bạn hãy tỉnh táo lắng nghe, nhìn ngắm chúng. Nếu bạn chưa thực sự lắng nghe
và nhìn ngắm chính bạn, thì những điều tôi nói ở đây chỉ là lý thuyết mà thôi.
Giác ngộ trong hành động, suối nguồn của nó từ việc thấy biết
được các pháp. Hành là lực chuyển vận ra mọi đường hướng ứng xử với dòng đời
hiện tại.
Khi nhìn ngắm các vật thể, sự sống và đối tượng trong đồng
loại, ta bị kẹt dính dồn nén, hay trôi chảy, thênh thang. Dấu ấn của Giác ngộ
là ở đây, là cái không ranh giới, không hạn lượng, là trí vô phân biệt, không
hận thù, bất mãn. Nếu ta có sự chống trái hay bất đồng – là dấu hiệu thấp kém
tầm thường của trí tuệ.
Từ khi biết được điều bí mật này, tôi biết mình không còn có
kẻ thù nữa. Ngay cả khi nghe bất cứ ai nói bất cứ điều gì, tôi đều thấy được
tính lặng yên trong những tiếng lời của họ, rất ít khi có sự phản bác.
Tuệ giác không bao giờ lu mờ, hoang mang, hay xu hướng theo
bất kỳ một lý thuyết nào! Nếu thấy cần để dẫn đến chính xác cho đối phương, thì
tự nó biết cách phân tích theo loại ngôn ngữ nào để dẫn vào chân lý.
Đổi xử an toàn linh hoạt, không làm ai tức bực, có hiệu quả
cao. Đó là biểu hiện của giác ngộ trong hành động, là tối thắng của người tìm
chân lý.
C. Giác ngộ sâu sắc qua Thân Khẩu Ý
Có lúc bạn thấy mình như một CÁI BÓNG. Bạn bâng khuâng mà
không hiểu từ đâu. Quả thật bạn chỉ là một cái BÓNG! Như cái bóng thật nhẹ
nhàng thanh thoát! Giây phút đó bạn hoàn toàn sáng suốt, không một hoài nghi
hay ám muội gì. Bạn hãy xác định thật rõ ràng, lúc đó bạn sẽ tỉnh thức và giác
ngộ. Hoặc đôi khi bạn thấy mình “Trống rỗng”, cái giây phút trống rỗng đó được
bạn thấy thật vô tư, không sợ hãi. Bạn không tránh, không chạy trốn nó vào
những công việc. Không biến đổi thành ý thức thực tế.
Chính đó là “KHOẢNG HỞ” của những luồng tâm dày đặc. Bạn luôn
lấp đầy cảm thụ, tư tưởng, hay hiểu biết thì không bao giờ bạn có cái “RỖNG
KHÔNG TRONG SUỐT” đó!
Hiểu biết là thứ yếu, hiểu biết là áng mây che lấp bầu trời
trong xanh vô tận.
Những xúc động, những tư duy, cảm giác … đều là những màn
sương mờ đục của tâm bản lai. Có những lúc bạn tự MẤT MÌNH, hoặc bạn không có ý
thức mình đang ở đâu. Giữa hai đám mây dày u ám, một khoảng trời trong xanh
hiện ra. Khoảng không gian tâm thức ta nhiều lần hiện ra rỗng không trong suốt
như thế mà ta nào có hay đâu! Ở đây bạn không cần tham vấn hay Thiền định chi
cả. Bạn chỉ nên theo dõi và lắng nghe “ Sự lắng nghe như thế - không nên
có người, cũng không có đối tượng chủ chốt nào” nghĩa là: Chỉ có chú tâm lắng nghe chứ không
có chủ hay khách gì cả. Bạn hãy bình thản mà chú tâm liên tục như vậy tức là đã
vượt qua tất cả những Thiền định và những pháp thức cạn cợt mà bạn đã nghe từ
trước.
Không ai có thể dạy cho ta những điều mà họ không biết gì cả.
Vì bạn không biết thực hư chính mình thế nào, nên bạn dễ tin những điều của
người khác nói. Khi ai nói một điều gì tốt, mạnh mẽ về ta thì ta có cảm giác họ
đúng, giống như cách những Thầy bói nói về vị lai cho những thân chủ của họ.
Bạn hãy dứt khoát trở thành chính mình. Bạn có thể thấy con
đường được che đậy và bưng bít từ lâu. Nếu bạn không vay mượn bất cứ thế lực
nào ở bên ngoài và cũng
không cần nương tựa, những gì mà tư tưởng bạn vừa mới sản xuất ra, trong sự
thầm lặng không tên đó, nhất định bạn sẽ đạt được giác ngộ hiện tiền.
Tính cố chấp.
Chấp là chất keo bám. Chấp là sợi dây vô hình nhưng có thể
cột trói ta vào dòng đời liên tục. Ta chấp mình là một con người, một nhân vật
quan trọng. Ta tự cho ta hơn người khác. Ta là người Nam , là Nữ, là giàu, là nghèo…là
thế này hay thế khác. Ta luôn thấy cái gì cũng thật (hay cái gì cũng giả).
Ta chưa bao giờ thấy được cái không tên. Ta chưa biết cái tên
gọi, không phải là sự vật. Ta chưa thấy sự vật như chính nó. Ta chưa biết tiếng
nói chỉ là một âm thanh. Ta chưa biết âm thanh là sự giao động từ hiện tượng cọ
xát nhau. Ta chưa biết những lượng gió bên trong, từ tâm động mà sanh khởi. Vì
chưa biết những điều đó nên ta tưởng cái gì cũng có thật, cho đó là thật gọi là
“CHẤP”. Chấp thế giới là thật, dù ta có thấy được sự tương tác, tương sinh của
hiện tượng vũ trụ cũng không phải là thật. Dù ta có thấy được cái không thì cái
không đó cũng không phải là thật.
Chỉ có một sự thật là: không thấy, không nghe, không hay,
không biết. Mà cái gì cũng thấy, cũng nghe, cũng hay, cũng biết. Đây là sự
thật. Một sự thật đúng nghĩa, thì không có gì gọi là thật hay là giả cả. Cũng
như một người thật “LÀNH” thì không có sự cố chấp thiện hay ác trong người đó.
Chấp có hay chấp không – làm thành tự ngã. Nếu một người nào
đó không còn tâm bám víu vào những gì xung quanh họ, thì người đó cũng không
cần phải hành đạo hay tu tập cái gì nữa. Như nói người nào tỉnh thức thì không
cần tu, người nào Giác ngộ thì không cần ĐẠO. Người giải thoát thì không cần
chùa am và hình tướng. Người thông minh nghe nói “Không Cần” như
thế … thì ắt tự có thể vượt qua, vượt lên cả hai chứ không có nghĩa là đi ngược
lại cái trước. Tâm mình thấy rõ không lấy, không bỏ một điều gì đó mới gọi là
hiểu đúng.
Hiểu đúng tức là
không chấp. Không chấp và hiểu đúng như thật tức là VÔ NGÃ. Vô ngã là GIẢI
THOÁT.
Một ngàn năm làm một bài thơ
Khói mây hương sắc mãi mong chờ
Bước chân theo bóng tình non nước
Sao để trung nhân mãi hững hờ.
NGƯỜI LÀ TÂM BẤT TỬ
TÂM TỰ TÍNH BẤT SINH
Trước khi nói về tâm bất tử và tính bất sinh.
Xin gửi tới bạn đọc bài thơ
TÂM
Tâm là tư
tưởng. Tâm là gió bay.
Mắt thấy tai nghe. Vật nghe vật thấy
Ý nghĩ tính không, đều là tâm tính
Tâm tính vô tính, pháp giới thường an
Thế sự nhân tình, đồng là bản thức.
Thức và vô thức – nước, sóng không phân
Biết cùng không biết, không một không hai
Người cùng muôn pháp, đích thực là Ta.
Ta đó vô ta. Nghe nhìn thanh tịnh
Tiếng mưa rơi rụng, sét bão đì đùng
Tiếng nhạc, tiếng người đều không hai pháp
Tâm hồn động tĩnh vũ trụ mây bay.
Lục căn lục trần qua như ánh chớp
Phật và ma quỷ ác thiện sinh tâm
Tâm Phật bất sinh luân hồi tự thức
Lão tử sinh nguy vọng cuồng mộng ảo
Tu hành ba cõi hai bảy chiêm bao.
Thấy đạt tâm rồi hốt nhiên vô Phật
Vô người vô
vật, vô tử vô sinh
Tia nắng nụ cười mây bay trước gió
Chuông đồng mỏ đỏ tiếng tự vô ngôn
Thanh sắc dập dồn Thần vui như Tết.
GIÁC NGỘ BẢN TÂM
Một người tâm đang điên loạn, khó mà biết được mình đang muốn
gì, người đó còn không biết mình là ai! Người điên không biết về mình, không
biết về người khác. Cũng không thể xác định được sự việc xung quanh một cách rõ
ràng. Trạng thái tâm vô minh còn đắm sâu, vi tế và mê muội hơn cả người điên
loạn. Người điên loạn gặp thầy thuốc giỏi có thể dùng y thuật mà trị liệu.
Người vô minh thì y thuật vật lý đều không thể trị liệu. Người điên loạn mất
mát có giới hạn và trong giới hạn thời gian. Người tâm vô minh mất tất cả và
thời gian khổ đau vô cùng tận, cho đến khi nào Tỉnh thức và Giác ngộ bản tâm
thì mới dừng lại. Người tâm vô minh chỉ thấy được danh và sắc.
Người tâm vô minh bị xúc thụ, tư duy và tự ngã lừa gạt! Tự
ngã đánh lừa qua danh và sắc. Người vô minh, tâm luôn bị đóng thành khung, như
con chim đẻ ra trong cái lồng, như con vật rừng già sinh ra từ sở thú. Người vô
minh tâm luôn bị quy định như con chim ở trong cái lồng bịt kín. Người tâm vô
minh nói bất cứ điều gì, ý thường quy về ngã. Nói đến đâu, tự thấy mình hiện
hữu (có thật) đến đó.
Người tâm vô minh nói hay làm bất cứ điều gì, thì đều ở trong
danh, lợi và tình. Như thế, lực khống chế của vô minh là tính phân biệt, nhị
nguyên như hai bờ mương nhỏ dẫn con nước đi theo hướng đã định của người dẫn
nước. Người tâm vô minh – tâm hướng ra ngoài, chạy theo sự biến đổi của vật tâm
xu hướng, thích sức mạnh, đám đông, sự đổi mới. Hăng say, nồng nhiệt gần như
khích động, nhất là chấp chặc về môn phái, lý luận và tri thức độc tôn. Tất cả
loại tâm trạng như thế là dấu hiệu “MUỐN – CÓ” là dâm khí của Tâm, Sức mạnh đẩy
tới của luồng sống chính là “DỤC”.
Người tướng trạng, một bên luôn muốn có, muốn rõ ràng, phóng
đi và lập lại. Điều đó nói lên sự lôi kéo, sự chao đảo, sự gập gềnh, tựa như
cái đu không có lực cân xứng, không thể thăng bằng và nó phải quay nhanh, đối
lực ở dưới hay ở trên. Kẻ chơi và người ngắm tâm chẳng đặng dừng. Trạng thái
tâm vô minh như thế không còn mọc rễ trong tâm người Giác ngộ, tâm đó bị bốc hơi và tan biến vào không
nơi xứ.
NGƯỜI GIÁC NGỘ LÀ NGƯỜI KHÔNG TÂM
Người Giác Ngộ thấy như không thấy, nghe như không nghe. Nói
như không nói, không nói như nói. Đang nói có thể dừng như không có việc gì.
Đang dừng có thể nói, nói không dụng tâm. Người Giác Ngộ, biết cách nói mà
không cần phát âm, Thấy rõ những âm thanh trống rỗng. Người Giác Ngộ thấy biết
được những mạch ngầm từ chiều sâu trỗi dậy. Những rung động xô đẩy, làm thành
âm thanh kết thành, liên hệ qua kinh nghiệm của từ, phát làm tiếng, theo giọng
lời quen thuộc. Trong mặc ước chỉ định – xác nhận từng phần hay tổng quát về
tầm, sinh, vật lý.
Càng không hiểu chừng nào những vi tế và kết nối theo thói
quen, con người càng mờ mịt tăm tối sai lầm về thực tại, chúng ta đã đánh mất
sự trong sáng tự do và tự tại. Người Giác Ngộ lần hồi thấy ra được những cấu
trúc chằng chịt của mạng lưới ảo lưu vận hành đa dạng. Thị kiến như thế làm cho
tâm trống không, hiển bày cái KHÔNG TÂM RỖNG SUỐT. Những cái không thường tại
vô thường) khốn quẫn, khổ đau của kiếp người đều là những ảo hình, ảo tưởng.
Thật vô cùng khó khăn cho đương sự để tách rời và nhận diện.
Người thấy được cái giả, cũng là người thấy được cái chơn. Cái chơn
không tách rời cái giả. Cái giả, xấu ác, bất toàn, vọng động sẽ chốn đi và biến
mất, vì khi nhìn ra được lãnh địa nào sản sinh ra chúng thì cũng chính từ nơi
mảnh đất đó chúng bị diệt tiêu.
Ai nhìn ngắm rõ ràng được những màn sương hơi nước, thì người
đó thấy được những đám mây không còn mê hoặc! Ai thấy được những xúc đoạt trong
cảm giác và tư duy, thấy được cái vay mượn dựa vào bản ngã, thì người đó sẽ vô
ngã không lâu! Người mà thấy được cái vô chủ thể và không căn gốc, cội nguồn,
thì người đó biết được tất cả sự phát sanh như giấc mộng! Người mở mắt thấy
luồng tâm vào trong mộng. Thấy được mộng, mộng sẽ không thành mơ! Giống như
người chặn mắt để thấy hai mặt trăng cùng lúc. Người có thể thấy rõ, nhưng
không còn mê hoặc. Mê hoặc từ cái chấp nhận thấy và thấy cái sai. Không còn tin
nơi tướng thật – cái chấp thấy phải tiêu tan. Thấy chỗ sản sanh – cái sai cùng
biết mất !
THỊ KIẾN RỌI RA ĐẾN ĐÂU, THÌ THỊ HIỆN CÁI VÔ TÂM RA ĐẾN ĐẤY.
CÁI CÓ TÂM không còn chỗ trụ thì cái BẢN LAI tức khắc hiện lên.
Người ta cố không tin trong cái thật, cái tận cùng, cái rốt
ráo không tên, đều chỉ vì ba lý do này.
Một là không ai quyết định cho (không nói cho nghe,
không chỉ cho thấy)
Hai là tâm đang có pháp (tâm vận chuyển theo một chiều
– có vấn đề)
Ba là không có tâm vô thượng, không có tâm rốt ráo tìm
chân lý. Tâm hạ liệt chưa bao giờ lắng lòng, lặng yên trong nghe, nhìn vào thực
tại.
Người Giác Ngộ là người không pháp. Pháp là giới hạn
của tâm, mà người Giác ngộ không tâm, nên pháp không còn giới hạn. Pháp không
giới hạn là pháp không có điểm dừng. Pháp không có điểm dừng nên tâm không chỗ
trụ. Pháp là tướng trôi chảy của hiện tượng mà thật tính Phật là lặng tĩnh hư
vô. Tâm người Giác ngộ nhìn đâu thì pháp đó đều an nhiên tịch lặng.
Các pháp không tên, không tướng vì tâm vọng nên các pháp
thành ra các tướng, vì tâm có dụng các pháp thành tên.
Tâm người Giác ngộ không phân biệt mà hiểu pháp đồng như danh
tự ở đời, biết sử dụng trực phân như thời đương đại. Dù có giao tiếp trong cuộc
sống sử dụng ngôn ngữ trực phân mà trong lòng vẫn rảnh rang rộng suốt. Với các
pháp thấy đều không – mà ứng xử hợp thời.
Các pháp đều bằng nhau, nên tự tâm không phân biệt. Pháp
không hơn kém tốt xấu nên không phân chia. Khi tâm tham muốn ở nơi nào đó thì
nơi đó thành ra hạn cuộc đúng sai.
Thời gian và không gian lấn đoạn nhau thành ra thế giới. Thế
giới bừng sáng rỗng thông và trôi chảy thành ra pháp giới giãn co.
Người Giác Ngộ là người không tính. Nỗi phiền muộn, ưu tư và
tập hợp (thói quen) thành ra tính. Người tỉnh thức đôi khi có những thói quen,
những đặc tính của thời gian còn sót lại. Đôi khi có những hư tật của Khẩu và
Thân lưu lộ ra bên ngoài, đôi khi sự hành xử người đời cảm thấy bất cẩn; duy có
điều: Người Giác Ngộ biết rất rõ điều mà thân, khẩu mình đang ứng dụng. Vì ánh
sáng vô tâm vô trị cùng cái hiểu biết rất vững chãi và rõ ràng trong sự vận
hành sâu kín, nên hành động không bị kết tinh. Hành động không còn tà tâm và tà
kiến.
Tà tâm là làm trong so sánh và không thấy rõ việc làm (có
dụng ý). Tà kiến là mình tự cho hành động đó là đúng, phải xử sự như thế. Chấp
chặt, dính đeo, nghi ngờ và sợ hãi.
Người Giác Ngộ tiếp thu mà không tiếp kiến. Tiếp cận mà không
lưu trữ, tiếp xúc mà không dính mắc. Bởi vì người Giác Ngộ có điều kiện để tiếp
xúc mà không điều kiện để dính mắc. Có điều kiện tiếp cận mà cạn kiệt điều kiện
tồn trữ lưu nghiệm về sau.
Người Giác Ngộ có điều kiện tiếp thu mà không đủ chất mê để
cắm sâu tà kiến. Như thế người Giác Ngộ luôn thoát ra những ảo lưu làm thành
đặc tánh, nên mới gọi là người Giác Ngộ không có tính. Tính là những tập kết
ngoại lai nó có thể thay đổi khi không gian và thời gian thay đổi và nó bị xóa
tiêu khi mặt trời của Tuệ Giác Ngộ lên cao!
Tính là chất cặn chưa kịp thải đi của thời gian và không
gian.
Người ở vùng nhiệt đới tính tình thường nóng nảy. Người ở gần
sa mạc tính ngưỡng mộ, thường khoét sâu bạo hành và cực đoan. Dân tộc ở hải
đảo, tính thích động, nhiều thuật và
phát minh.
Người dân ở miền cao tính hay trầm tư, hướng nội tình cảm và
hy sinh. Cá nhân thì có người tính nhiều tham vọng, nóng giận, si mê. Có người
tính đa sầu, đa cảm. Có người tính tình phóng khoáng. Có người tính nhỏ nhen
ích kỷ. Có người tính ưa giúp đỡ. Tính thiện, tính ác… Tất cả tính của người
đời như vậy là do từ cuộc sống, địa lý, khí hậu, thức ăn, chính trị, chiến
tranh, học thức, tập tành, phát kiến, đam mê...
Người Giác Ngộ được tính bản lai thì tất cả đặc tính trên đều
lần hồi rơi rụng, Như đã nói trên Tính là cặn bã của cuộc sống, là chất meo
ngoài vỏ cây, là chất thải không tiêu hóa. Nó bị tập tành kết tinh và ám thị
trong vận hành của cái biết. Tính – không có thật. Người nào thấy được cái
không thật Tính đó tự động rã.
Người Giác Ngộ là
người không Tính (không Tính là tuệ giác thăng bằng rỗng suốt, không cố chấp
vào cái không). Không Tính cũng gọi là TÍNH KHÔNG. Tính không là không còn một
đặc tính gì nhưng luôn có một hiện hữu thấy, biết, nghe nhìn không ngã chấp,
không si mê, đồng trong tất cả.
THỜI
GIAN VÀ KHÔNG GIAN
Giấc mơ hình thành sự sống
Ngày trước
tôi thường có những giấc mơ lạ. Lạ là rất ít có trong mộng. Giấc mơ của tôi có
thể nói là Giấc mơ lớn. Lớn cả ba mặt:
1. Bối cảnh không gian vĩ đại
2. Hoành tráng dị thường làm tạo dựng và biến đổi dòng tâm
thức.
3. Làm cho chuyển hoán những hạn chế và nghĩ tưởng hiện tại.
Sau đây là giấc mơ vượt biển: Tôi và nhiều người khác đang
vượt qua biển. Cảnh biển thì sóng gió mênh mông. Tôi và nhiều người khác, mỗi
người đều ngồi trên một con vật to lớn dị thường như rồng, cá ngao… mỗi người
cũng không phải bình thường, thân hình ai cũng to lớn kỳ dị, có vẻ các thần
nhân kỳ hình dị tướng.
Tất cả đều hồ hởi vượt lên, tiếng va
động ầm ầm như đoàn quân thần xông trận. Sóng gió hãi hùng cùng khói mây trong
cảnh mênh mông trời nước. Tôi cùng ngàn người đầu to mình lớn, như nhất đồng
loạt xông lên. Khí thế hùng uy xúc động lên những cảm giác khích lệ dị thường
uy dũng.
Cảnh giới của giấc mơ thật hãi hùng uy tráng mênh mông như
thế cho đến bây giờ để lại trong lòng tôi một không gian tràn ngập. Những hiện
tượng đời sống dù rất thực tế như hiện tại vẫn không xóa được viễn cảnh của cơn
mộng trên. Cảnh mộng thì không còn, nhưng dấu ấn của một sự tràn ngập làm loãng
tiêu dòng thời gian biến dịch.
Thời gian bị không gian lấn loạt, thời gian tự loãng trống,
lúc một không gian rỗng làm cho dòng chảy không thể kết tinh.
Hiện tại là không gian của tư duy, kéo dài theo ức tưởng làm
thành khoảnh khắc của ký ức hai chiều. Kinh nghiệm đó bị giấc mộng huyễn hoặc
va động rồi vỡ tan. Như thế ta đã thấy rõ rằng kinh nghiệm đó là cái ứ đọng
những ảo tưởng. Chính ảo tưởng là trung tâm phồng nở ra không gian. Không
gian không lặng yên mà tự chao động chảy dài như thể có thật một dòng thời gian
chuyển tiếp.
Và
sau đây là giấc mơ thứ hai của tôi:
Vào
một buổi chiều, bầu trời tĩnh lặng, tôi đi đến một bờ sông, lội xuống nước và
từ từ đi ra sâu.
Khi
nước đến bụng tôi đứng lại, nhìn thấy từng đoàn thuyền như những chiếc thuyền
đua, thân dài mình nhỏ. Ngồi hai bên be thuyền là những tay chèo khỏe mạnh đẩy
dòng nước lướt nhanh về phía trước. Mấy đợt thuyền đã đi qua tôi vẫn đứng yên,
đến thuyền cuối cùng như thế vừa lướt tới. Tôi nghĩ: Đây là thuyền cuối và tôi
vội vã chụp nhanh đằng sau lái, tôi đeo với hai tay thật chặt, một nửa thân ở
trên và một nửa ngâm mình dưới nước, cứ thế mà bám theo. Khi ra quá cửa sông
thấy sóng nước mênh mông, lòng tôi kinh hoàng sợ hãi. Người lái thuyền bỗng
quay lại nhìn tôi và bảo: “Đây là NGHỊCH LƯU”. Vừa nghe chữ NGHỊCH LƯU, lòng
tôi cảm thấy bình an trở lại. Từ đó đến nay đã lâu, nhưng tôi không còn nghi
ngờ gì nữa (không còn hoài nghi, thân kiến, chấp chủ).
Nếu
vi tế mà nhận xét thì đây là một cơn mơ thuộc thời gian như: trên đường ra bờ
sông – lội dần ra sâu – những đoàn thuyền lướt nhanh – bám vào chiếc thuyền sau
cùng – thuyền ra giữa sông…
Những
di động của hiện tượng, sự tiếp nối của từng giai đoạn, từng hành động, sự sợ
hãi tiềm ẩn và An tâm. Thời gian đi từ đâu lại? Những vận hành nào từ thầm kín
tâm tôi – những xô đẩy nơi tăm tối nào mà ta không ý thức được. Ta không thể
biết được cấu trúc khi cơn mộng hiện lên. Không thấy được Nhân dẫu ta nhìn
thấy, mục diện được cái đang xảy ra. Cái đang xảy ra xoay động rất nhanh đẩy
chân tri ta bừng sáng. Cái ban đầu ẩn mình trong thực kiến, như dòng thác từ
dốc cao đổ nhanh, mặt nước càng lóng lánh linh động vô cùng. Tốc độ nước càng
nhanh, mặt nước càng lung linh ảo diệu. Từ xa ta có thể thấy dòng chảy xiết của
thác như một giải lụa màu trắng sáng kỳ lạ vô cùng. Chính vận tốc đã tạo
ra sắc hình kia. Cái động dồn dập là thời gian. Thời gian cọ xát thành ra sắc
trạng. Sắc trạng là không gian hình
tượng, xoáy lốc không ngừng lại tạo ra sự chảy trôi là THỜI TÍNH. Thời tính hay
thời gian. Những bóng bọt muộn phiền âu lo là sự sống…
Sự
sống, sự chết vùn vụt không ngừng. Ký ức thời gian xoá mau về phía trước, làm
tụt hậu về lối sau tạo ra sự lưỡng phân dòng tâm thức. Tư tưởng là kinh nghiệm
– những xác ướp trập trùng, phóng ra cái nhìn, giọng nói tự họa, tự khai, rồi
tự giảm teo trong lối mòn kéo lôi và sợ hãi!
Như
tôi đã nói ở trên: THỜI GIAN, KHÔNG GIAN – GIẤC MƠ HÌNH THÀNH SỰ SỐNG.
Sự
sống, cái hiện thực mà ai cũng có thể thấy được. Nhưng không phải thấy, đó là
cái THÓI QUEN, không phải thấy qua lớp vỏ bề ngoài, không phải thấy từ bao bì
quảng cáo. Những kiểu thấy như thế quá xưa rồi. Thấy như một âm thường (tên
gọi). Thấy như một hình thể dù đánh giá dưới mặt nào đều sai cả, phải thấy mà
không có thói quen, phải thấy cái không tên và phải thấy như cái không hình.
Sau đây tôi sẽ cố gắng đưa “CÁI THẤY KHÔNG THẤY” để chúng ta
cùng hội nhập. Cái thấy không thấy cũng còn gọi là cái thấy không phân hạn ranh
giới. Thấy rỗng không mà không mình thấy hay vật thấy.
Thường thì ta thấy là thấy một cái gì – Một cái gì gợi lên
một thường âm từ bóng tối. Thường âm đó đồng nghĩa với cái “ Hữu”, cái Mặc –
ngôn đó phóng thể ra bên ngoài dán nhãn vào một cái gì đó làm thành dấu hiệu
của sự thật. Cái có tên thì có thật. Trước đó chưa từng có cái thật, vì chính
tự hiện tượng không từng lừa dối.
Sự vật vốn không tên. Từ tâm ta chuyển động thành âm, ký
hiệu của âm thường là tiếng. Những tiếng gọi bên trong, những tên lộ bày ra
hình sắc. Nếu ta thấy được tiếng gọi không âm thường trong lòng ta thì ta có
thể phát minh ra một điều kỳ diệu. Cái gì sinh lên từ trong ta mà ta không
thấy, thì cái đó dễ dàng gạt gẫm ra. Ta sẽ sinh lòng tức giận với cái gì lừa
dối ta bên ngoài, nhưng ta lại thích che đậy và bảo thủ sự hư dối của ta từ bên
trong! Tại sao ta lại chỉ thấy ở bên ngoài, tại sao ta không thấy bên trong?
Thấy bên ngoài là thấy theo thói quen. Cách thấy mà người lớn đã dạy ta khi mới
biết nói. Ví dụ như dạy một người đọc tiếng “Cha” hay “Thầy”, hay dạy một người
khác đọc tiếng : “Bu” hay Mẹ hay Mợ hay Dì. Em bé phát âm lần đầu như tiếng sáo
qua lỗ trống.
Âm phóng, mắt nhìn, ý tứ, cảnh tưởng phát sanh. Cái thấy
thành ra Đối – Vật. Cái thấy trở thành chủ thể. Cái thấy xác định nơi nó một
trạng thái có thật. Cái thấy trở thành sự thu gom. Em bé khi còn nằm trong nôi,
cái thấy như gương rọi cảnh. Em bé khi tập nói, cái thấy thành hình. Em bé bắt
đầu phân biệt cái thấy đóng khung. Từ cấp tiểu học trở lên, cái thấy của các em
có đường viền chi tiết – có thể trở thành quy định hẳn hoi: THẤY LÀ THẤY MỘT
VẬT GÌ! Từ đó ta không còn thực tính nữa. Mắt tuổi thơ soi, sánh như gương
trong, vạn vật sắc màu cũng phản quang như hình rọi cảnh. Ta càng bé bỏng cái
thấy càng hồn nhiên, cái thấy của tuổi thơ rất gần như cái thấy thật. Cái thấy
qua tuổi tên, cái thấy đó đã khác xa sự thật, càng trở thành vong ngoại, là cái
thấy đã xa rời cái thấy thật (sự thật).
Thấy ra bên ngoài càng
lâu cái thấy càng mất đi mầu nhiệm. Con mắt trở thành giới hạn. Thấy là vô hạn
mà nay trở thành giới hạn. Ranh giới hạn chế của tầm nhìn. Nhìn trong tầm gần,
tầm xa, góc độ, mắt như một “mảnh trời” khép lại, mắt như vì sao lẻ loi, hiu
hắt, giữa không gian đầy mây đen và bụi cát, giữa sa mạc đêm dài. Đó là cái
thấy bên ngoài, cái thấy hướng ngoại, cái thấy điên cuồng và dục vọng.
Tại sao ta không thấy bên
trong? Bên trong là chỗ nào? Muốn định vị được bên trong, thì từ mỗi quang năng
ở chỗ nào ta tự phải dừng ngay ở chỗ đó!Ví dụ ngay nơi mắt, ta phải tự tỉnh
sáng và ý nơi đó lặng yên. Mắt và trục giữa phóng ra phía trước. Hồi quán lại là
bên trong, những lần đầu khi nhìn ngược lại thì chẳng có gì để thấy. Thần ngưng
tịnh, ý buông khoang. Lần lần mắt ta tự tịnh. Khi mắt ta tịnh, trong tâm khởi
ra điều gì, ta sẽ thấy biết. Tâm luôn móc nối và liên hệ các tư tưởng ta đều
biết rõ, đó gọi là thấy bên trong. Khi ta thấy được liên hệ và sinh khởi của
tưởng, tức là thấy được sự sinh diệt từ lâu.
Bạn sẽ mục kích chỗ tâm
sinh (tâm này tức là tư tưởng, thì bạn sẽ mục kích chỗ “vật sinh”). Tâm
sinh thì thế giới hiện hữu, tâm diệt thì thế giới lặng yên.
Ta chỉ một lần thấy được
thế giới lặng yên thì tâm ta lần lần tịch diệt. Tâm tịch diệt thì thế giới sẽ
rỗng thông nhất tướng. Thấy được nhất tướng là thấy được vô tướng tâm. Thấy
được tâm vô tướng thì biết tâm không chỗ trụ. Tâm vốn vô trụ. Ta sinh tâm, tâm
liền trụ bám.
Một người kém thông minh,
không thể dò la, quán sát được vùng sâu kín của tâm. Đó là nội cung cực kỳ bí
mật, nhưng nó không thể che dấu được một ông chủ đang lặng lẽ an lành ngồi
trong đó. Ông chủ là đôi mắt thần kỳ diệu, ông ta nhìn đến đâu nơi đó liền
thanh lương tỏ sáng. Người ta thường nói: “Chủ vắng nhà thì gà bươi bếp”. Gà có
bản năng bươi tìm (óc soi mói, nhị phân) và báo sáng (cảnh giác, tự ngã). Tâm
ta thường có loại bản năng tương tự là: Kiếm tìm, so sánh và cảnh báo tự kiêu (những
phát minh và ảo vọng). Những cọ xát lưỡng biên và thủ chấp tập căn, có lâu đời
ở trong tâm ta, chúng chỉ tồn tại đến khi chủ nhân tỉnh giấc mộng vàng và mở
đôi mắt thần làm ngọn lửa sáng soi và đốt sạch những gì đam mê, ám muội ngàn
đời muôn thuở để lại rực rỡ sáng trong.
Tôi sẽ nói thêm vì sao ta
luôn luôn bị nô lệ? Từ đâu sự cột trói chồng chất mãi… và những gì tạo ra lực
hấp dẫn kéo lôi. Người ta có thể hành động một việc gì đó trong vòng một hai
giờ đồng hồ cho đến cả ngày đêm đều được, nhưng ít ai có thể ngồi im một vài
giờ. Nếu bắt buộc phải ngồi im lặng hay đứng, thì người đó phải chịu sự phiền hà rất nặng, đó là về
thân. Còn trong tâm ý thì không có một người nào là không giao động, tự tạo ra
những cảm nghĩ, bức xúc hay ảo tưởng.
Những tưởng vui, khổ;
những xúc giác hạnh phúc hay bất an đều là những hành trạng dằng co lôi kéo.
Như mặt biển luôn có những lượn sóng lớn, nhỏ lăn tăn không ngừng nghỉ.
Nội tâm ta cũng thế, nó
luôn hiện hành những áp suất. Chính những áp suất này khiến ta luôn cảm thấy “Có
một cái gì” đó. Trạng thái áp suất hiện hữu khơi dậy trong tâm một
trạng thái tri thức mơ hồ. Lực ngầm của nó khiến ta phải xác nhập một cái gì đó
và sự bám víu làm tăng một thực tại, một thực tại có một cái gì.
Khi ta thấy một đối
tượng” CÁI VÔ TÌNH” làm cho ta phóng hiện và xác nhập tức thì. Xác nhập một đối
tượng có nghĩa đen là đem đối tượng đó vào trong ta. Đem đối tượng đó trở thành
ta. Nhất là khi đối tượng là khác giới tính. Đột nhiên mà ta chỉ còn "một
nửa" “Ta cần một nửa kia” đến độ không có thì không được!. Trước đây vài
phút tâm ta là đứa bé hồn nhiên vô tư lự. Một tiếng sét bất ngờ ta tràn đầy
ngoại nhập. Ta đã tha hóa, vật hóa đi rồi. Ta tiếp cận bằng mắt, mắt ta mờ đục.
Ta tiếp xúc bằng thân, thân ta run rẩy. Ta tiếp âm bằng tai, tai ta lùng bùng.
Sắc, thanh, xúc và khứu giác của ta đều đã bị xỏ mũi dắt đi đến những phương
trời viễn mộng. Nếu ảnh tướng bên ngoài thâm nhập vào trong ta một phần, thì
lực cảm xúc của ta phóng thể ra bằng hai. Cứ thế ta tự tạo ra một lực ma quái
và tăng mãi không cùng, giống như ta tự ám thị và thôi miên chính ta!
Không những hình ảnh nam,
nữ mà những xúc, cảm giác, âm thanh hương vị và cả những cách nghĩ, nói, nhìn,
điệu bộ, dáng dấp, tác phong, tư thái ung dung nhàn hạ. Những động thái có khởi
sinh, có tác khởi hiện lên, những thứ như vậy đều trở thành nền tảng rồi tự co
nhúm phóng ra bất tận.
Nếu có ai chú tâm tự
nhiên và quan sát trong lặng thinh vô tư một thời gian dài, thì sẽ phát minh ra
rất nhiều đầu mối và biết được các gốc rễ chùm gửi của những gút mắt chồng chéo
chằng chịt trong tâm.
Ta sẽ thấy một hình ảnh,
một cảm xúc, một âm thanh v.v… lôi kéo ta rất rõ ràng mãnh liệt. Ta luôn “muốn
– làm – lại” những gì ta đã làm. Ta “sẽ” làm những gì ta
đã làm. Ta trở lại để hợp nhất cái “TA ĐÔ cùng lúc cái "TA ĐÃ" càng
dày đặc trùm kín, nó phóng hiện ra muôn ngàn cái “TA SẼ”.
Ta đã và Ta sẽ móc dính vào
nhau như hai toa tàu mãi phăng phăng về phía trước. Nếu có ai muốn nhìn cái
khoảng giữa để tìm một kẽ trống thì rất khó. Ta đang ở trên một toa tàu với vận
tốc khó phân, nhìn ra bên ngoài ta thấy mọi vật đều lướt nhanh. Cái nhanh thụt
lùi, thật ra nó (sự vật) chẳng tới lui gì. Nếu toa tàu của ta chạy trong khoảng
không gian vô tận không đối vật, không vượt qua sự thăng bằng và cân bằng chính
nó "Thì nó chạy đi đâu!". Toa tàu đó đang chạy trong
đêm tối, khi tàu sắp khởi hành, thì mặt trời bị mực tàu bôi đen kín cả
Người ta nói: "Tàu
sắp khởi hành. Tàu chuyển bánh”. Tàu chạy nhanh vì vận tốc quá nhanh nên không
thể nào đo lường sự chuyển động được. Hay vì tàu chỉ đứng yên một chỗ đấy thôi.
Dù ánh sáng mà tàu chạy với tốc độ bằng mười ngàn triệu lần vận tốc ánh sáng thì ta làm sao thấy
được? Không ánh sáng ta ngủ quên trong mơ, chỉ biết tàu đang chạy, chạy nhanh
đến nỗi ta không biết tàu đang chạy hay đang đứng.
Tàu đứng mà ta tưởng là
tàu đang chạy. Tàu chạy mà ta tưởng tàu đang đứng. Ta hãy biết tận cùng chỉ còn
cái ĐỘNG TỪ ý nghĩ TA mà thôi. Có lúc tôi thấy bản thân mình là toa tàu.
Những hành khách trên toa tàu là các tưởng. Một anh TƯỞNG có tay nghề cao cầm
lái. Những cô Xúc trẻ làm tiếp viên, những chị GIÁC CẢM thì giữ phần ẩm thực,
chú Ý – TRÍ bán vé, còn ông già THỨC TÁNH thì làm Giám đốc kiêm Thanh tra.
Bản thân tàu may
mắn nhìn ngắm rõ ràng được kẻ đến người đi. Thấy những cô XÚC trẻ trung tiếp
diện những thân sơ, gần xa, lên xuống. Biết
mấy chị CẢM GIÁC tận tâm chiều khách bằng cách làm những món ẩm thực rất
hợp thời khẩu vị. Nhờ sự hưởng thụ hợp khẩu vị mà khách phải luôn ràng buộc ở nơi toa. Ông chú LÍ – TRÍ thì luôn phân biệt kẻ
gian, người ngay; người có vé, đuổi kẻ quá giang và ông già THỨC TÁNH lúc nào
cũng: “Tôi thấy rõ” ra “ta đây” là biết tất cả. Có khi bọn họ cũng lộn xộn hoặc
say sưa rồi ngủ thiếp. Thân tàu tôi ngừng lại chình ình.
Tôi thấy rõ ràng
những vớ vẩn, xuẩn phí cho một tập đoàn ảo tưởng mải mê vùi, chìm đắm trong cái
rập rình tương tác của giấc mộng đêm dài. Sự kiện như trên dù ta cho rằng không thật, nhưng quả
nhiên là không giả, Chỉ cần chúng ta, tôi và bạn phải thấy được và hiểu rõ thật
chính xác, dù chỉ một lần, thì không bao giờ còn nghi ngờ gì được nữa
* BẤT SANH BẤT
DIỆT LÀ TÍNH BẢN LAI
* THẤY BẢN LAI
LÀ THẤY PHÁP GIỚI. THẤY PHÁP GIỚI LÀ THẤY VŨ TRỤ NGUYÊN SƠ.
* THẤY NGUYÊN SƠ
LÀ THẤY VÔ CHUNG VÔ THỈ, BIẾT ĐƯỢC CÁI KHÔNG KHỞI, KHÔNG TÀN LÀ SỰ THOÁT LY
VÒNG LUẨN QUẨN.
* THẤY CÁI VÔ
SANH ĐẠT THÀNH CÁI BẤT TỬ
Không phải ta không già
chết, mà tất cả không già chết từ xưa đến nay. Nếu xác thân này không già chết
thì chẳng có giá trị gì. Vì “không già chết” chỉ là một bản sao thứ yếu, một
nhân bản ngụy sinh: TỪ CÁI VÔ SINH VÔ DIỆT, cùng với giá trị lớn ở chỗ KHÔNG
HAI (cùng với tất cả tâm đều nhất như không giới hạn).
Bạn nên đọc và thấu hiểu những câu thơ sau đây :
Sinh lên trong cái Đã sinh
Hiện hình là tự chính mình đang đi
Vận hành trong đổi thay này
Thấy còn rỗng lặng huống gì vật kia
Sinh lên trong cái đang lìa
Cái mà đang trụ tức là đang đi
Lặng dừng trong cái chuyển đi.
Tan đi trong cái tức thì trôi qua.
Cái gì sinh lên là cái đã
có rồi. Cái có hình tượng là cái có di động.
Vận hành thô luôn đi sau cái dịch chuyển vi tế.
Cái thấy thì luôn rỗng
lặng mà vật thấy thì rỗng lặng đã lâu rồi.
Phải biết cái vừa sinh là đã biến
mất ngay chính nó.
Trụ
với chuyển cũng như động và tĩnh – đều đồng một tướng.
Tịnh
lặng đồng trôi chảy thông suốt.
Tan
biến trong sự trôi mau của Tướng trạng có thể thấy ở muôn loài vạn vật.
BẤT SINH BẤT DIỆT LÀ
TÍNH NIẾT BÀN
Thật thể là cái bất sinh
Bất sinh là cái không già
chết
Nhân danh cái TA thì có
khổ đâu
Có một điểm dựa thì có
danh
Có danh thì phải xứng
danh
Chỗ dựa để đặt tên, không
có thật, thì việc xưng danh là điều giả dối.
Sự vật luôn biến đổi
không dừng, người kém trí thì không tin.
Bất cứ một sự việc gì xảy
ra, thì như đường bay của chim trong khoảng không. Đường bay của không, không
dấu vết. Chim bay còn không nhất định, thì dựa vào đường chim mà đánh dấu trong
hư không là làm một việc điên rồ.
Nếu hiểu được hiện tượng
thế giới như đốm lửa quay tròn, vì đóm lửa không thật có điểm dừng. Tự thân lửa
cũng không có thật.
Thế giới không thể
đo lường, không thể đánh dấu, không thể đặt niềm tin, lại càng không thể nương
tựa. Tồn tại của thế giới do gốc tự mù lòa. Gốc thì ở TÂM mà đại diện của tâm
là tai, mắt. Tai mắt bệnh thì đưa giả trá vào tâm. Tai mắt lành thì khám phá ra
đồ giả trá. Muốn thấy nghe được sự thật thì “Đừng qua trung chuyển”. Hiện tượng
trước mắt ta lúc nào cũng rõ ràng, tướng trạng của nó không có ngôn ngữ văn tự.
Khi ta ngắm nhìn nó mà trong lòng không có thanh âm, ngôn ngữ thì cả ta và vạn
vật đều an ổn thanh bình.
Hãy thấy rõ ta chưa từng
sinh, vạn vật chưa từng diệt. Không sinh diệt, thật sự là ta thấy được cái
không sinh, tức là ta không có chỗ dựa.
Không ở trong, không ở
ngoài – lộ diện ra cái bất sinh. Nếu cần có một cái TA thì TA KHÔNG TA là bất
diệt. Khi thật cảm giác rằng chính cái BẤT SINH này là bản diện ta thì ngay nơi
đó ta là tính bản lai rồi vậy.
THẤY BẢN LAI LÀ THẤY PHÁP GIỚI-THẤY
PHÁP GIỚI LÀ THẤY VŨ TRỤ NGUYÊN SƠ.
Thế
giới có hạn lượng
Pháp giới không hạn
lượng
Thế giới là sự sinh hoạt rộng
lớn của đời thường
Pháp giới là chỉ cái
yên tĩnh mà luôn vận
hành từ nguyên lý
Thấy bản lai – trí
được viên mãn
Thấy pháp giới – tuệ
được viên thành
Pháp giới là một đa dạng đa hình - rộng dài bất tận
Vũ trụ nguyên sơ là cái
vô chung vô thỉ - trước lúc phân hai.
Thấy được vũ trụ nguyên
sơ là khi thấy được tâm pháp chưa hình thành ra ý niệm. Pháp giới vũ trụ là tâm
mà tâm cũng là pháp giới vũ trụ, không có trong, ngoài sau, trước – cũng chính
là chỗ vô thỉ vô chung vậy.
Biết được cái KHÔNG KHỞI,
KHÔNG TÀN là thoát ly mọi chi phối của huyễn tướng vô thường là cuộc sống. Là
ổn thỏa mọi tiến trình, là giải quyết một lần xong tất cả. Dù ở trong sắc thân
vô thường suy não mà hiểu được cái “KHÔNG GIÀ, CHẾT, KHỔ, ĐAU”. Ở trong cái
sinh thấy bất sinh. Ở trong cái tử thấy bất tử, cùng với sanh tử sắc tâm không
tách lìa, không thấy khác; đây là bản lĩnh tối hậu của sư phục hồi trực tánh.
Có thể đặt câu hỏi rằng:
“ Làm sao có thể tin đó là sự thật”.
SỰ
THẬT đến với ta một cách ổn định, an toàn và siêu việt. Trước hết chúng ta sẽ
hoàn toàn tin, còn vượt cả đức tin thông thường. Sự thật đến không có thời
gian, tồn tại cũng không có thời gian. Giả sử ta hiểu được sự thật cách đây
mười năm hay hai mươi năm thì cũng vừa mới hiểu mà thôi. Ta sẽ không giao động
trước những lý luận phản bác. Ta cũng sẽ không tranh cãi và bất mãn với bất cứ
một ai. Ta không nghi về mình, hay nghi về điều sai trái của kẻ khác. Sự thật
đã sáng tỏ rồi thì ta luôn có một sự vững trãi, bằng lòng vô điều kiện, kể cả
bằng lòng với sự lìa bỏ xác thân này. Sự thật đã đến thì ta tự biết rất rõ rằng
điều này ta không học hay bắt chước người khác được. Điều này không ai có thể
áp đặt cho ta hay chỉ bày ta được.
Ta cũng biết có vô số bậc
cao minh và sự chứng nghiệm còn hơn thế nữa. Ta biết rằng những siêu nhân vĩ
đại có thể gieo hạt cho ta một cách kỳ diệu. Hoặc tạo ra những duyên sự đến với
ta bằng phương tiện trí mầu nhiệm sâu xa nào đó. Nhưng cái xảy ra và rực sáng
lên thì không phải từ đâu mà đến. Và những giây phút không gian tâm thức bừng
lên và tan biến đến độ vô tâm, siêu lực chuyển đưa đến cái “Thị kiến tự
kiến” chưa từng có kia, thì không phải bất cứ một ai ngoài ta xác định
cho ta được.
Thấy, nghe, dụng ngữ, hành động, ngược, xuôi, trái, thuận,
cứng, mềm, siêu, tục. Tất cả mọi ứng dụng của Thân, Miệng, Ý trong thời gian,
không gian và tạo, hủy, của người nào đã đạt vào cõi THẬT; đều có thể bình thường, bất thường, hay dị thường hoàn toàn không
nhất định.
DỤNG HAY VÔ DỤNG ĐỒNG NHAU KHÔNG KHÁC
Người có thể
sống đồng NHƯ THẾ GIAN, NHƯ PHÀM TỤC, NHƯ DÒNG ĐỜI ĐƯƠNG ĐẠI. Nhưng sự Thật
trong tỉnh thức và Giác ngộ vẫn không bao giờ bị xói mòn, đổi thay và xu hướng.
Xu hướng hay
khuynh hướng dù bất cứ hình thức nào, đều nói lên cái phát xuất bị chuyển lay
từ tâm điểm. Khi tâm điểm đã bùng vỡ cái “dựa” rồi thì cái “không thời điểm”
hiện lên tức khắc. Không – thời – điểm không từ chỗ “Thai - mang” không có
nhân và bắt chước theo một cái gì.
Cũng từ chỗ nguyên sơ không tạo nhân nên nó
không là hậu quả. Dụng hay Vô dụng là cái xô động bị một thế lực
bất thường lôi cuốn. Dụng hay Vô dụng đều nằm trong tự
biến và bị biến, hoặc đóng băng, hoặc tan vỡ. Cái KHÔNG TÂM ĐIỂM vì không cùng
trong thời gian hay không gian nên không bao giờ bị kết tinh hay vặn ốc được.
Chính cái LỰC VÔ VẬN TỐC đó mà tự thân nó hoàn toàn là độc lập. Độc lập là cái toàn
tại của tự do. Tự do là NỘI DUNG không còn ranh giới hay hạn lượng từ ý thức so
lường. Nên cái Vô tính thực hữu của nó quả nhiên là sự độc lập tuyệt đối.
Hoạt lực trong
đa dạng của cuộc phóng điển dị thường thâm nhập vào mọi tư thế hành động, ngôn
ngữ song song, hay nhập nội vào đời thường cuộc sống đã nói lên cái mật hành,
mật ngữ không xa khác với giây phút hiện tiền.
Thực tính là
giây phút hiện tiền đó, chưa bao giờ khác với cái đối lập nó. Hiện tượng và
hành động không phân chia, không tương đối, tương giao và ngoại lai. Tất cả đã
là NÓ. NÓ là sự vận hành qua tất cả, cùng tất cả và trong tất cả.
Tha nhân cùng
khổ, nó cùng khổ. Nó cùng khổ đồng thời với tha nhân. NÓ SUNG SƯỚNG vì đối
tượng SUNG SƯỚNG. NÓ SUNG SƯỚNG từ giới hạn SUNG SƯỚNG. Nó đường hoàng trong
cần thiết vì sự đường hoàng.
Nó bê bối cùng
cái cấp thiết của bê bối. Nó vênh vang vì có sự nhất trí từ vênh vang. Nó ô
nhục vì không ngoài ô nhục. Khi ô nhục nó không cần ra khỏi sự ô nhục. Nó hiểu
biết thế nào là ô nhục, thật sự ô nhục là gì? Không quá một tích tắc nó biết
điều đó, nó không mong và không tránh.
Cái dụng hay
vô dụng bề mặt và bề trái đều đồng nhau trong vô điểm.
Nó hành động
như phàm tục hay như siêu nhân. Nhưng nó không cố ý như phàm tục hay siêu nhân.
Nó không tạo ra khuôn mẫu, khuôn mặt để được là phàm tục hay siêu nhân.
Có người nói
rằng: Người Tỉnh thức là THỨC GIẢ. Người Giác ngộ gọi là người TRÍ GIẢ. Bực
thực giả và trí giả thì luôn đứng đắn, tác phong siêu thoát, ngôn hành luôn là
gương mẫu đạo đức cho mọi người. Không thể có người Tỉnh thức, Giác ngộ mà vẫn
sống như phàm tục u mê, hay không giữ được oai nghi phong độ. Được điều đó dĩ
nhiên như một thông lệ. Cách hành xử đức độ, vuông tròn vẫn là một mẫu mực ngàn
đời cho thế sự.
Điều trước hết
ta nên biết phong cách đạo đức, đàng hoàng gương mẫu. Bề mặt của thời nào người
ta cũng đều ngưỡng mộ, nhưng thật sự mặt trái của nó có “CÁI – THẬT – MUỐN” hay
không thì chính tâm trạng cá nhân mới tự biết mà thôi. Cũng vì ham chuộng những
hình thức đạo đức gương mẫu mà người ta mới giả dối lẫn nhau. Bất
cứ việc làm đạo đức gương mẫu nào người ta đều có thể nhái theo nhân bản ra
được cả. Duy chỉ có sự tỉnh thức và Giác ngộ thì người chưa từng chứng nghiệm
không ai có thể làm giả được.
Giả dụ như hai
người có đức độ có phong cách cao thượng, hay một người có tư cách và không tư
cách. Hai người đang đàm đạo cùng nhau, hay đang hành động một việc gì đó. Hai
vị này đều cho mình là Giác ngộ trí giả. Người thứ ba và người ở ngoài cuộc làm
sao biết người nào là thật (Giác Ngộ) khó mà đánh giá người này hơn người kia được! Vì người nào nói ra cũng có lý. Có thể
có một người lặng lẽ vừa mới nghe qua cách lập ngôn, đối ngữ người này biết một
trong hai người có chỗ siêu diệu phi thường. Nhưng cũng không xác chứng một
cách tuyệt đối được.
Nếu người siêu
diệu ngôn hành kia quay lại đối diện với người lặng lẽ. Người lặng lẽ có thể
khởi lên một ngữ nguyên đơn giản để hỏi đáp với người kia. Người tự cao cho là
bậc Giác ngộ kia không ngờ trong ngôn ngữ đơn giản kia lại có Mật ngữ vì không
từng biết trong thanh âm có Mật ngữ, không ngờ trong cái bình dị có Tệu giới sắc
bén dị thường đủ rạch đứt những dạng thức đa nguyên hỗn tạp.
Dù là một nhà
thần học, một triết gia đa nguyên, một Thiền sư đương đại, một bậc khổ hạnh
thâm trầm hay một bác học tăng thời thượng cũng đều không thoát được một lằn
chớp của giác ngộ bất sanh. Một vị vua chúa ngày xưa muốn đi du lịch ra ngoài
để biết được đời sống của nhân tâm thế sự. Tuy Vua rất thông minh có thể giả
dạng và hành động như người thường, nhưng một người tinh mắt có thể nghi ngờ và
khám phá.
Nhưng một
người kỳ diệu đã chứng được Bất sanh, thì rất khó biết dù người ấy có lẫn lộn
trong phàm trần lụy thế, hiện diện trong chức phận, trong vô danh, trong độc
liêu hay trong phẩm tiết của một phàm nhân, thế ngoại.
Người bình
thường, tín ngưỡng, đạo đức, trí thức có thể tôn trọng, ngưỡng mộ và học hỏi
với nhau, nhưng nếu đem sự ngưỡng mộ, tôn trọng thần tượng đến với Giác ngộ,
thì điều đó có thể Lầm To. Vì sao vậy? Vì Giác ngộ không có tướng. Ta có thể
thật lòng ao ước muốn Giác Ngộ. Ta có thể thật lòng tôn vinh đạo đức hình
tượng. Ta đặt danh dự lên trên tri thức và kiến thức.
Thật không thể
nói đây là Giác ngộ hay đây là chưa Giác ngộ. Vì cái đến hay chưa, cái có hay
không tuyệt đối chỉ người đó mới biết mà thôi! Sở dĩ biết được cái siêu ý thức
đó, là do người đó đã đốt sạch những bản sao, không một phiên bản nào khác. Thợ
khéo nay đã lấp bằng khuôn đúc- người.
Nghệ nhân
thiên tài độc diệu đã nhai trọn tất cả đồ nghề nuốt vào bụng, chất sa thải dụng
làm những hành tinh mới. Chất tinh hoa thành chất khí nhiều màu phun vải vào hư
vô. Pháp giới hóa tất cả hiện tượng từ vật thể nhỏ nhất không còn so sánh, đến
cái lớn nhất, đến không thể nhìn ra đều tan hòa vào vô hạn.
Đến đây chúng
ta có thể giải trí một chút bằng cách tự hồi ký theo tiến trình cuộc sống. Đó
là con đường mòn tiệm tiến mà có vô số người đã bước qua lần lượt cùng tiến
đến, Từ…vô thỉ, xa xăm…mơ hồ …tiếng khóc…trẻ khờ…thơ dại…hồn nhiên...đòi hỏi…bắt
chước, tập tành, học đòi, học tập, vươn lên, so sánh, hiểu biết, ý thức, làm
khôn, dại, nghi ngờ, tự đắc, hoài nghi, tìm kiếm, phấn đấu – Sai lầm, hiểu ra,
phân tích, gật gù – tự cho… sợ, quan sát, sáng lên, sâu lắng, chạm, máy động …Tỉnh
ra, thức tỉnh, cận kề… Bùng - Giác Ngộ… Hợp nhất - Rỗng, sáng, an nhiên, toàn
diện.
Một người chưa
rỗng sáng thì không thể có một hiểu biết giá trị được. Người đầy ắp trong tâm
thì không hiểu rỗng sáng là hiểu. Người mơ hồ thì thấy không là không. Người
vật hóa thì mọi lý lẽ nghĩ ra đều là vật chất. Người mê tín tâm hồn thì xu
hướng duy tâm. Người nhiều chứa đựng mà không tiêu hóa thì sinh dao động. Người
chấp cứng thì nặng nề. Người cố chấp bị đối nghịch thì sinh ra nóng - lửa.
Người luyến bám mà mất đối tượng thì sinh hoảng hốt, xọp xuống tan đi thì sinh
ra nước. Hai vật cọ xát nhau thì tạo ra áp suất nhiệt, trong nhiệt quyện rút
vào nhau có bóng mây trung chuyển thành hơi và nước. Từ dao động làm thành dao
động. Sức nặng tự đè nhau, không chỗ tháo, đỡ thì thành ra lực đẩy. Sức đẩy
không dừng khi chưa đủ 2 lực bằng nhau. Tâm cưỡi trên lý, lý làm động khí, khí
xanh vật, vật cưỡi trên vật mà bị vật làm mờ. Vật tạo ảo giác vào tâm. Ảo tưởng
từ tâm biết dịch, sanh ước muốn, ước muốn cần xác nhập cái bên trong với cái
bên ngoài.
Dục là sức đẩy
của ước muốn. Mượn hình ảnh động tác giữa hai cực hình thành dâm tính. Dâm tính
thường tạo ra mọi động thái để tăng cường cho lực. Lực thu hút ngoại hình và
nội súc tác sanh và hủy diệt cho đến cùng kiệt và tan rã một chu kỳ.
Tâm là một
thực thể chưa từng sanh. Bất sinh là TÂM nên cũng gọi là TÂM BẤT SINH. Mắt thấy
cái thường và vô thường thì không thể thấy tâm, vì không thể thấy tâm nên người
trí có thể thấy được màng nổi như TƯỞNG – THỤ và XÚC, những bóng dáng của hiện
tượng trôi nổi trên tâm, nên gọi là tâm vọng. Tâm vô hình vô sắc, nhưng có khả
năng tràn ngập vào tất cả hình tướng, tâm không dính, không nhiễm, tâm không có
khối lượng, không trọng lượng không có chiều dài, chiều ngang và chiều đứng.
Ví dụ như một
mặt phẳng không đáy, mặt phẳng trong suốt đến nỗi không có vật mà cũng không có
được cái không (dù là tưởng tượng). Tuy trong suốt và vô hình như thế, nhưng nó
có lực đa năng tuyệt đối. Như lấy một điểm mạnh về bất khả xâm của nó: Nếu có
một ảnh tượng nào rơi vào mặt phẳng của nó đều không thể dính đến nó, ngược lại
vật đó bị run rẩy, co cụm hoặc kéo dài tự hoang mang sợ hãi, hoặc vui mừng và
hủy diệt. Ta ví như nhiệt cực lớn trong một nồi nước tuy không sôi sục hay có
sóng, nhưng bất cứ một vật gì đó như một cọng rau, một miếng thịt bỏ vào thì
cọng rau hay miếng thịt đó bị sức nhiệt phi thường của nó đẩy tung lên dập dồn
liên tục và có khi đánh bật cả ra ngoài.
Tâm vô hình vô
tướng, không rung động hay cảm giác nên không thể thấy mà tin được. Không hiểu
nó ở đâu thì làm sao mà an trụ được. Chưa biết cái vô trú thì không an trú.
Không an trụ trong vô trụ thì cảm thấy hoang vắng, cô đơn, bất an. Trong cái
hoang vu hiu hắt đó cần như phải có một cái gì từ cái không biết như là cái
thiếu, nó tự tìm chỗ dựa dù cho có chỗ dựa, mà thực ra nó cũng chỉ dựa được vào
ảo tưởng của chính nó mà thôi. Cái gì nó tưởng là thật ở ngoài nó cái đó không
có thật. Như trẻ con lấy ống thổi xà phòng thành bong bóng. Bong bóng quay
nhanh liên tục biến đổi từng phần tử tiêu tán. Nương tựa vào cái đang biến đổi,
mất mát thì sẽ thất vọng mà thôi.
Tâm là kho báu
vô tận cho ta được tất cả an ổn và lạc thú. Nhưng ta chối từ nó. Ta đang chịu
cái dả dạng có nhiều khích động cảm giác. Như trẻ con thích mang mặt nạ giả hơn
là cái mặt thực của nó, vì cái mặt thực không làm cho nó khích động được. Cái
mặt nạ dù có xấu và nặng nó vẫn thích.
Với con người
dục tính và bạo hành là để có cảm giác mạnh và sâu, luôn cọ sát vào trong như
luồng nước mạnh chảy theo lối mòn. Càng chảy càng xói mòn, càng xói mòn càng
chảy mạnh.
Có người nào
đó muốn thay đổi hay chặn đứng dòng chảy, một ý nghĩ lóe lên rồi tắt ngấm. Lần
thứ hai người đó khởi lên ý nghĩ muốn như trên, ý nghĩ đó chỉ trì hoãn một thời
gian ngắn rồi chìm xuống. Lần thứ ba người đó lại sinh lên ý tưởng muốn chặn
dừng những thói quen hư xấu trên dòng chảy. Người đó có thể duy trì trong một thời
gian, người đó cố gắng có sự chống chọi…với chính mình nhưng rồi thất bại ý
nghĩ lần đầu của người đó giống như một tia chớp, lần thứ hai như một kẽ hở,
lần thứ ba như một khoảng trống mà còn hẹp.
Ở
đây, ta có thể thấy được hai lực chiếm dụng lẫn nhau. Lực thói quen của vọng
động dục tính giống như cơn sốt, trạng thái thì bất cần tốt xấu phải trái gì
cả. Nó là sự vận hành nguyên thỉ của bóng đêm.
Lực
tác động thứ hai có chủ trương ý thức giống như từng viên thuốc cố làm giảm dần
thế lực của đối phương. Lực này có định hướng từ ngã. Sự biến đổi của bệnh lần
lần giống như kẽ hở, khoảng trống rời khoảng cách càng lúc càng nới rộng cho
đến khi không giới hạn.
Sự chữa lành,
thoát ly…vọng động chính là khoảng trống của hai lực chính và tà, tịnh và uế,
tốt và xấu. Cái khoảng cách giữa hai bên kia mới thật là cần thiết, nó là một
không gian rỗng, sáng và tuyệt đối. Nếu ta tinh tế quan sát sẽ thấy rằng từ một
lần trống vắng của kẽ hở, khoảng cách cái không gian rỗng sáng đó lớn dần, sự
lớn dần nó cũng mạnh dần.
Lớn và mạnh
của không đó cứ lấn tràn dần ra, nó bù đắp khuyến khích cho ý nghĩ thiện. Nó
giúp cho cái vận hành là ổn định hạnh phúc hơn của cuộc sống. Nhưng chính bản
thân nó mới là đích thực (tức là sự rỗng sáng không nhị nguyên). Nó xa thoát,
vượt ra và viên thành, tràn ngập trong tất cả và qua tất cả, để trở nên cái
hằng hữu viên thông.
Cái rỗng sáng
tịnh hóa trong lặng tuyệt vời kia mới đích thị là bản thân ta vậy. Nó ở tận
cùng của pháp giới hư không, nhưng chưa từng trụ vào một nơi nào cả.
|
Viết xong lúc 11h00
ngày 02. 06. 03
(03. 05 Quý Mùi)
NGƯỜI MÂY TRẮNG
|
NẾM MÙI BẤT DIỆT
Nếu bạn chưa biết mình
là ai, là giống gì, là cái gì? Thì trước hết xin bạn đừng tin bất cứ một điều
gì. Dù điều đó là của một bậc thầy nói ra, dù điều đó là một của vĩ nhân nói
ra, dù điều đó do các bậc bề trên, hay thần thánh lưu truyền để lại. Bạn không
tin nhưng bạn không nên bài bác, hoặc phê phán những điều đó và những người đã
nói ra điều đó. Bạn không để trong tâm mình hoài nghi và ngờ vực kẻ khác. Dĩ
nhiên bạn không nên khinh ghét một ai.
Khi đọc
những dòng nay, lý trí bạn có thể nghĩ đây là điều tốt! nếu bạn biết đó là điều
tốt thì không nhất thiết bạn phải làm theo. Bạn đừng nghĩ tưởng rằng ta nhất
định làm thế này hay thế khác. Vì dù bạn có quyết định chắc chắn như thế nào nó
cũng trôi tuột đi mất, nó không ở đó. Rồi bạn sẽ nghĩ rằng những điều này khó
khăn, mình không thể làm được. Bạn không thể làm được, vì bạn
không tin tưởng nó. Bạn không biết thực chất nó như thế nào? Trở lại mất tự
tin. Rồi bạn không còn tin một ai!
Có những vị
thầy bệ vệ, đạo đức, trí thức, vừa mới thấy bạn đã sinh lòng cung kính tôn
trọng, muốn học theo, làm theo. Bạn muốn được nghe lời chỉ dạy kính mến của các
vị Thầy mà bạn kính mến thần tượng. Nhưng rồi một thời gian bạn thấy cái bệ vệ
kia không có gì quan trọng, đạo đức có chỗ nghi ngờ và trí thức kia không cho
bạn cái bình an. Không làm bạn hạnh phúc. Quả nhiên đó là sự thật. Bạn không
thể hạnh phúc vì sự “Ám thị” bạn làm sao tự do từ sự đồng hóa.
Cái gì bệ vệ
dềnh dàng đều từ đường nét bị quy định, bị đóng khung mà có!
Cái đạo thật
thì không có tướng, người làm ra tướng thì không có đạo. Người nào đạo thật thì
không có đức gì cả! Vì đức là đặc tính từ kết tinh mà có. Đạo không bị kết
tinh. Đức thật là tình thương mà không có chủ thể, không có người thương, tạm
thời có thể thấy có sự tương giao với mọi khách thể, không xung đột vị Thầy ở
đây không có sở hữu chủ. Điều khó khăn làm sao biết thật, giả; phải trở lại
biết chính mình. Khi thấy được mình, tất
thấy được người, cái thấy được này không phải là phân biệt.
Trí thức thì
không ngại, nhưng một vị thầy có nhiều trí thức mà lại dùng trí thức để giao
dịch, đối đãi và nương tựa thì nhất định ông thầy này không hi vọng giác ngộ và
giải thoát cả; trí thức cũng là kiến thức nó được xâu kết từ âm thanh, màu sắc
mà có. Nó từ chỗ không hiểu biết mà tồn tại, lại từ tâm cô đơn mà hành xử. Ở đó
nó bị chìm. Tại sao lại quá nể trọng một vị Thầy? Tại sao bạn lại mất mình lệ
thuộc? Tại sao bạn không làm Thầy cho mình?
Từ khoảng
không mênh mang kia con chim trời cứ tự do mà bay liệng? Nếu con chim đó mến
thích một cây rườm rà, tôi nhất định là nó sẽ quanh quẩn mãi ở những nhánh của
cây. Nó tự hạn cuộc chốn vui đùa, một không gian khung lồng và phải trở thành
lệ thuộc. Bạn là con chim vô tận, bạn ăn quả ngọt khắp muôn phương, đường bạn
đi là đường chim bay không cần bản đồ chi cả.
Đất trời là
chính bạn
Tỉnh say là niềm vui
Con chim trời đang bay
Trong sương chiều lắc lay
Đám mây buồn ngủ lắm
Trong đất trời đang say
Như vậy không thú vị sao?
Con chim đang bay không lưu giữ cái ban đầu, như vịt trời, như thiên nga,
con hạc, chúng tuy khác nhau nhưng chúng đồng cái tự do của không gian, chúng
không có tôn giáo. Chúng không cần Thầy. Từ cái kinh nghiệm như là không, chúng
trở nên thành đạt. Bạn cũng thế, hãy là Thầy của chính ta, hãy thắp sáng con
tim và khối óc. Một vị Thầy là tu sĩ, linh mục, mục sư…có thể tô phết cho bạn
những kiến thức, họ có thể uốn nắn chân tay, hình hài của bạn trong một dập
khuôn nào đó, họ sẽ hoàn toàn bất lực sai lệch, họ không thể nào cho bạn tấm
gương của con tim, họ không thể đốt lên ngọn đèn trong óc bạn, họ không biết
bạn ngứa ở đâu. Họ không biết bạn đau bụng hay đau đầu. Họ cố gắng truyền cho
bạn những giáo lý phi thường, cao thượng đủ thứ. Trong khi đó hay lát nữa đây bạn
phải đi vào toilet. Rồi họ cũng phải đi theo con đường của bạn mà thôi. Vì đó
là con đường của thời gian cùng các linh mục, mục sư, sư phụ của bạn đều nằm
trong con đường rầy của thời gian ở trong toa tàu phải đi qua. Giáo lý là tư
tưởng nó còn nhanh hơn vận tốc của toa tàu. Nó cũng không cần nằm mãi trong các
trạm ga của chính nó.
Vậy tại sao
bạn không đốt lên ngọn đèn, bây giờ là thời đại của năng lượng ngọn đèn có khi
chúc xuống, công tác cần phải bật lên…Vật thực mới đã ăn gì? Hay vật thực cũ
còn tồn đọng lâu đời trong bao tử cần phải rọi lên cho rõ ! Phải cho sạch sẽ!
Cổ tích giác ngộ
Bạn cần sự
giác ngộ hay bạn cần những mẫu chuyện cổ tích về sự giác ngộ?
Giác ngộ
không có trong chuyện cổ tích, giác ngộ không có giây phút nào mà nhảy múa
trong bạn, nó giống như tiếng đập liên tục trong tim, bạn có nghe không? Bạn có
nghe tiếng tim không đập của bạn không? Nó đã về nhà rồi nên nó mừng vui vũ múa
tự do đấy!
Bạn có giác
ngộ chưa? Hãy nghe hơi thở của bạn tuôn trào mà như dòng suối lặng lẽ trôi qua,
nó mang đầy đủ cái tính không mà không ngại vì vật thể. Nó không cần Giác ngộ
vì nó không tên. Bạn đừng gợi lên cho nó âm thanh, bạn cũng đừng thì thào tâm
sự chi cùng nó; vì khi nó phải phân hai thì nó chết.
Vị Thầy hay Quả Tim?
Nếu quả tim bạn
rối loạn thì vị Thầy cũng rối loạn thôi. Quả tim bạn đang đập tiếng và nhịp đập
đều có lý do của nó. Nếu bạn đem cái rối loạn từ tim bạn nhập một vào cái rối
loạn của vị Thầy, cả hai rối loạn đó sẽ trở thành bản hòa tấu khổ đau vĩ đại,
bạn sẽ tự tìm đau khổ. Quả tim sẽ đánh thức vị Thầy nếu không có bạn. Vị Thầy
sẽ thức tỉnh từ tiếng đập trong buồng tim của họ. Khi bạn đến vị Thầy sẽ ném
trả bạn về thực tại trong buồng tim thực tại của bạn. Có gì thực tại hơn chính
quả tim mình. Bạn hãy lắng nghe tiếng nói của nó. Nó nói bằng hơi thở bằng gió.
Tuyệt đối không có lý luận không có giáo đường.
Hơi thở là sứ giả
Hơi thở là sứ giả của chân lý.
Bạn hãy lắng nghe nó. Đừng làm khuôn tập luyện nó. Nếu bạn tập luyện nó,
nó sẽ làm vị Thầy gương mẫu, méo mó như tất cả như những vị Thầy mà bạn thấy.
Những bậc Thầy đều dùng nó làm nạng chống, nó có khả nắng ém nhẹm đi những cái
rắc rối từ buồng tim của họ.
Bạn đã tẩy
chay cái bên ngoài thì bạn cũng đừng cầu cạnh cái bên trong.
Bạn hãy vui
vẻ như con chim hồng tung cánh sâu vào không gian.
Nó có cơ hội
sâu nắng vào mạch thở của chiều trời, nó nghe được mạch thở của thời gian. Nó
trở thành vũ trụ. Nó không tư duy. Không niềm tin, không tôn giáo.
Chiều trôi mây chảy
trên ngàn
Tư duy bỗng hóa hàng hàng chim bay
Bạn có thấy một con chim cút không? Con cút cụt
đuôi, ai nuôi mày lớn? Nó vừa đi vừa lắc nhắc vừa gục gặc cái đầu, nó rất bằng
lòng với những vật thể li ti dưới chân nó, nó không bao giờ bay xa, bay cao
khỏi những tầm cây lớn. Nó không thoải mái như nó nghĩ, vì nó sống bởi sự lệ
thuộc của thời gian, nó sợ hãi.
Nó nghe nói
loài Thiên nga, Bạch hạc như người đời nghe nói Chư Thiên ở cõi trời ba mươi
ba.
Chúng ta
cũng thế thôi, như ngày nào chúng ta còn bám víu vào mảnh đất ở bên ngoài, bám
víu vào các mục sư, linh mục, sư phụ, tôn sư, thiền sư…thì ngày đó chúng ta
đánh mất Thầy từ quả tim và khối óc của chúng ta.
Nếu chúng ta
khát khao, thì có thể dò theo những tín hiệu từ quả tim và hơi thở. Nó là thông
tin độc đáo nhất. Nếu bạn có tâm sự như thế nào thì hơi thở thông tin cho bạn
biết!
Nếu bạn có
niềm vui, nỗi buồn chi thì tiếng đập tim liền báo hiệu cho bạn hay. Bạn
hãy làm cho một cố gắng tương giao với gió tuy vô hình mà có thật (hơi thở ).
Bạn hãy cố gắng tương giao với âm thanh thầm kín (tim). Chúng không giàu có lắm
nhưng chúng đãi bạn tử tế, chúng thật thà và nguyên thủy. Chúng trội hẳn hơn
các bậc Thầy ngoại lai. Vì họ cũng đang có một buồng tim và hơi thở rối rắm vô
cùng. Nếu không có bạn thì họ phải tử vong đấy.
Bạn cũng có những phụ
tá rất ưu tú, chúng cực kỳ đắc lực nếu bạn muốn, chúng có thể gọi đến cho bạn
vị Thầy tối thượng.
Nếu bạn bằng lòng, từ
nơi chúng, bạn sẽ trở thành vô hạn, bạn sẽ tuyệt đại thênh thang, giải thoát.
Đó là mắt và tai của bạn.
Nếu bạn không có đôi
tai bạn không thể nghe nhưng bạn còn phải nghe như thế nào để được cái vô hạn.
Bạn hãy nghe thế nào đó
mới thênh thang vô lượng, bạn không cần nghệ thuật nghe nào cả.
Giữa đêm
khuya yên lặng một tiếng động vật qua rồi mất hút. Tiếng động trôi qua từ như
tia chớp cái lặng lẽ vô cùng. Cả hai bạn đều nghe rõ.
NGHE LÀ VÔ HẠN
Bên bờ biển
vắng, âm thanh từ những cây thông phát ra vi vu mơ hồ như hòa tan vào cái không
vô tận. Tiếng sóng vỗ vào bờ đá, tiếng
nước đuổi nhau lên triền cát. Nếu từ cái đặc cứng thì ta không làm sao nghe
được.
Trong giây
phút tỉnh táo bạn vẫn nghe.
NGHE KHÔNG LÀ Ý
THỨC.
Trong
những khoảng rừng im lặng, trên đỉnh núi cao chúng ta có thể phát minh ra những
điều kỳ diệu.
Người ta có
thể rập khuôn theo một tôn giáo nào đó trên 20 năm. Kết quả không chắc hơn một
tuần dã ngoại ở trên núi cao, bạn có thể nghe tiếng lá…rơi của hư vô, tiếng
động của rừng sâu.. Tiếng lùa của gió trong rừng cao và tiếng mây không âm thanh
:
Nằm im trong rặng núi
Mây bay phủ ngang đầu.
Gió lùa cây lá hát
Chẳng biết mình nơi đâu.
Cái mất là
dấu hiệu đầu tiên, là hợp nhất muôn loài vạn vật.
Mất là cuộc
phủ nhận vô tiền khoáng hậu.
Thời gian
được chết đi, không gian bôi xóa và vạn vật được hình thành.
Giữa tôn
giáo hình tượng và một sự thật, bạn muốn cái nào hơn?
Giữa một vị
Thầy mà quang năng không hoàn chỉnh và cái chân lý muôn đời bạn chọn cái nào?
Chân lý
không là của ai, không ở trong tôn giáo nào? Nhưng nếu bạn khám phá ra nó rồi,
nó trở thành của bạn. Không ai có thể cướp đoạn được.
Nhưng lạ
thay từ đôi mắt này bạn thấy nó cùng khắp và có trong tất cả mọi người.
Bạn không
thể sở hữu chân lý, làm sao bạn sở hữu một tôn giáo.
Bạn không
thể sở hữu từ cái tự ngã dao động và vật chất này thì làm sao bạn sở hữu một vị
Thầy.
Bạn chưa
thấy một chiếc lá lìa cành, bạn không thấy một chiếc lá đang rơi, bạn không
ngắm nhìn chiếc lá nằm im trong cội nguồn của nó, làm sao bạn tách bạch được
giáo lý từ kinh văn. Tất cả các đấng giáo chủ đều đã chết, sao bạn không chết
theo. Bạn không chết một lần với họ, làm sao bạn được hồi sinh cái vô cùng của
chân lý.
Bạn có thể
mơ hồ cái gọi là chân lý nhưng bạn không thể mơ hồ cái bất hạnh liên tục xảy ra
trong hiện tại, đó là trạng thái cô đơn. Bạn luôn có một cái gì đó che lấp như
một tư tưởng một công việc càng lớn, bạn càng yên tâm. Tâm hồn bạn nghỉ ngơi, nhà
trống vắng ánh mặt trời từ phương đông, luôn chiếu thẳng tất cả cửa ra vào của
bạn. Vì bạn có sự ám ảnh nào, nên bạn không có được ánh sáng êm đềm? Vì điều đó
bạn phải đóng cửa lại, hay bạn phải chắn bằng những bức bình phong?
Bạn thích nhân danh một cái gì đó?
Tôi thấy rõ ràng: những lý tưởng lớn dù có tốn nhiều thời gian, công sức và
tiền bạc bạn vẫn chấp nhận nó. Bạn biết việc làm của bạn người khác không làm
được, trong đó có công ước của danh dự, có sự đồng tình và kính trọng từ cá
nhân đến xã hội.
Thật ra lý tưởng không hoàn toàn ổn
định nếu nó không có sự tán thành chung của đa số. Bạn làm một ngôi chùa với
truyền thống để kính thờ Đức Phật hay tạo phúc và hướng dẫn con đường giác ngộ
cho người sau. Nhưng trên thực tế của dòng lịch sử Đức Phật cũng không ngồi ở
trong chùa, không khuyến khích kẻ khác chiêm bái ngài như một vị thần.
Dù bất cứ ở một hình thức nào Đức
Phật cũng chỉ tuệ giác và tình thương.
Có những vị Thầy bỏ ra hàng triệu USD
để làm việc như xây chùa, dịch kinh…nhưng khi đối diện với kẻ nghèo, hay em bé
ăn xin ông ta không giám cho lấy một đồng. Một bậc Thầy vĩ đại có thể đọc cả
một đại tạng kinh nhưng chưa bao giờ mời một kẻ rách rưới nghèo khổ ngồi trước
mình để uống một ly nước.
Như vậy tình thương ở đâu nó còn quá
xa, hoặc còn bị niêm phong ở những ngân hàng lớn.
Một người có bằng tiến sỹ hoặc một
giáo sư đại học ở nhiều quốc gia có thể đọc hết một ngàn bộ kinh luận của Phật,
nhưng khi nhìn một đồng loại, thấy
không có sự cảm thương, y đang thấy mình vĩ đại, thấy tự đóng khung - một vỏ ốc
dày cố thủ không ai làm được.
Một đồng loại mà không tương giao,
làm sao cảm thương dị loại? Có thể nào ta thấy được những cánh chuồn mong manh,
những cánh bướm nhiệm mầu trên đám cỏ hoang đồng nội.
Người ta không thực sự có hạnh phúc,
cũng không thực sự có bất hạnh.
Bất hạnh hay hạnh phúc chỉ là sự nhần
lẫn mà thôi!
Hành trình của cuộc sống và biến
thiên cũng từ cái nhìn mở ra hay khép lại, cái vui hay cái khổ cũng ở lại trong
lòng, nó không từ đâu đến lại cũng không về đâu.
Đời sống là sự đeo bám, tâm trí luôn
luôn phải có cái gì, nếu trống trơn người ta cảm thấy buồn. Buồn và cô đơn vẫn
còn sự bám víu… Nếu không có sự mong chờ , thất vọng trông ra thì không có
buồn!
Hạnh
phúc là sao? Phải chăng đó là những âm thanh nối dài, những tiếng nổ dòn liên
tục, có những bản nhạc nào mà có những rung động, những phát âm của cây đàn.
Chúng ta
không ngừng bám chặt vào cây đàn cuộc đời và Tôn giáo. Chúng ta không ngừng
kích thích mình trong mọi chiều hướng, để được khoái lạc, dù đó là hình thức
đời hay đạo.
Nương
vào cuộc đời thì có năm phần may, năm phần rủi. Nương vào đạo( hình thức tôn
giáo) thì có chín phần rủi một phần may. Vì sao thế ? Chúng ta hãy thấy
những bạn ở chợ hay ở bến xe, họ ăn tục, nói phét, chửi nhau, có khi đánh nhau
nhưng chỉ là một hai hôm (có khi sáng, chiều) là họ có thể ngồi cùng nhau cười
hả hê và ăn nhậu.
Trong
khi nhưng vị Thầy lớn, những vị lãnh đạo tôn giáo khi đã bất đồng chánh kiến,
thì họ khó ngồi cùng nhau trong giây lát, cũng có lúc cần thanh toán lẫn nhau.
Vì sao thế? Vì lớp áo tôn giáo quá đầy! Rách thì khó vá.
Người tu
ít khi có đạo! Người xưa nói người có đạo không giận cách đêm. Nói như vậy
người đời mới có đạo sao? Người đời không hoàn toàn là đạo nhưng họ gần đạo
hơn! Vì sao? Bởi người đời chỉ thường mặc một lớp áo mà thôi! (có khi họ còn ở
trần nữa !) trong khi đó người tu phải mặc đến hai hoặc ba lần áo (áo bên
trong càng khó thấy), như vậy làm sao mà có đạo được? (Ám chỉ những tri thức
mâu thuẫn, đa dạng).
Đạo thì
giản đơn bình thường không bị che lấp, hình thức càng bình thường càng dễ thấy
cái bình thường của đạo. Đời sống càng đơn giản càng thấy cái giản đơn của đạo.
Vì vậy mới gọi là gần với đạo.
Chúng ta
không được mơ hồ về những hình thức của tôn giáo, nhất là Phật giáo. Những
phương tiện để chuyển tiếp và sự thật thì khác xa, những hình thức và pháp môn là
dụng cụ và thuốc để trị liệu những bệnh trầm khá nặng nghiệp. Nhưng ngày nay
hình thức và phương pháp lại trở thành hấp lực, rất nhiều người đã biến hình
thức thành tôn giáo, những pháp môn trở thành cứu cánh. Đó chẳng khác nào lấy
ngón tay làm mặt trăng để được tiện dụng. Người giác ngộ thì phương tiện là cứu
cánh, như nói thật pháp chính là các pháp. Nhưng những vị Thầy giỏi khi hướng
dẫn kẻ khác thì không đặt nặng những phương tiện hay pháp môn. Vì những sơ tâm
của người tầm đạo rất trong lành và quý hiếm như tờ giấy được viết chữ lần đầu,
nếu ta hướng dẫn sai thì khó lòng mà sửa lại.
Người đi
tu thì phức tạp hơn nhiều (không giống người tầm đạo). Đa phần vì hoàn cảnh.
Một số do cảnh lành, nghiệp duyên, một số truyền thống từ gia đình họ.
Tôn giáo
ngày nay dù có hình tướng cũng chỉ là bản sao. Nội dung thì không đổi thay.
Nhưng có được con mắt phát minh thì quá khó khăn không ít. Tuy nhiên những dữ
kiện tồi tệ đó, chúng chỉ là những hình thức đóng băng trên bề mặt chân lý mà
thôi. Nếu có người trực tính không tin lớp đóng băng kia là có thật. Hắn nhìn
thẳng vào tất cả vấn đề dù nghiệp chướng có bao nhiêu cũng chỉ là trong mộng mà
thôi. Hắn tự dùng tay dụi vào đôi mắt, mắt tức thì phải mở ra. Giây phút đầu
hắn thấy cái không tên, mọi hiện tượng đền an nhiên tịch lặng !
Với cái
không tên là cái VÔ - TÂM. VÔ- TÂM là cái vô tướng trong tất cả sự vật- từ đó
gọi là trí tuệ hay TUỆ GIÁC.
Khi ngày
đã đến, bóng đêm dần dần tan biến. Giác ngộ là khả năng mà ai cũng có được, bởi
vì Giác ngộ là năng lực mạnh nhất của đời sống. Nó thường hằng hơn bất cứ sự có
mặt và động chuyển của chúng ta.
Giác ngộ
là đường viền bằng ánh sáng từ tâm bất sanh. NÓ tự chớp lên báo hiệu
cái «HIỆN TIỀN LÀ TẤT BẤT SINH BẤT DIỆT CỦA CHÚNG TA»
Tất cả
bối cảnh, hiện tượng từ tâm sinh và thân vật lý đều là mũi tên đang bay. Nó
nương vào không gian đi qua, nhưng hư không không chưa từng biến đổi. Khi mở
mắt, bạn thấy tất cả dù có thử ngàn lần bạn vẫn thấy, cái thấy không có ý thức
– Đó là TÂM- TÂM BẤT SINH nhắm mắt, hay mở mắt bạn đều thấy. Cả trong mộng bạn
vẫn thấy như thường . Bạn hãy tự nghiệm mà xem! Bạn có thể vừa thấy vừa nghe,
không phải nghe cái gì! Cái nghe không có cái gì cả. Vô ý hay cố ý, bạn đều có
CÁI NGHE. Nghe là tâm bất sinh , không phải làm nên, không phải dựng nên, bạn
sinh tâm nghe mới được nghe. Nên nghe là tâm bất sinh- vì nó không phải bị diệt
nên nó chưa từng sinh nên gọi là « TÂM BẤT SINH « .
TÂM BẤT SINH là thân thật của chúng ta, là thân pháp của chúng ta.
Mắt
chúng ta nhìn sự vật, ý dao động, âm thanh của tên thì hành theo cảnh. Gọi là
tâm sanh, kỳ thật tâm không có sanh. Chỉ có ý sanh mà thôi, vì ý là chỗ chứa
nhóm giả danh- tự cho là có thật nên dao động.
Nếu thấy được chỗ tâm bất sanh ý liền mất. Cái
nghe cũng là tâm bất sanh, khi nghe chúng ta thường biết tiếng động gì, động ở
đâu ? ý khởi lên kiếm tìm, phân biệt ngay đó, tâm phải bị che- chỉ biết
đối tượng- mà không biết có cái nghe- cái nghe là tự tánh nó không lẫn lộn, tự
tồn mà bất sanh bất diệt. Đó chính là VĂN TỰ TÁNH.
Nghe là
tự tánh- thấy tự tánh- nghe- thấy thường bất diệt vì là tâm bất sanh. Nhận được
chân thật này vượt ngoài vòng sanh diệt. Đó là Phật tâm sanh, thoát ly già,
bệnh, chết.
Sau đây xin chân thành tặng các bạn một bài thơ tên
là LẶNG DỪNG. Lặng dừng là những yếu quyết! Nếu muốn bạn có thể tự mình
xem xét.
Lặng dừng qua cái lặng yên
Hư vô sau cái nỗi niềm tan mau
Chìm sâu tận cái muôn màu
Nghe ra ảo mộng bên cầu tư duy
Lắng nghe những cái thầm thì
Cái đang là đã có gì nữa đâu
Không ta không cái tâm đầu
Không thì khái niệm không màu thời gian
Không đi, không đến, không tàn
Không tình, không ý, không hoang mang gì
Trời vô vi, đất cũng vô vi
Trên cầu, dưới nước,người đi rực hồng
Trong kinh nói «Các hành vô thường, là pháp sanh diệt. Sanh diệt dứt rồi, tịnh
diệt là vui»
Các hành
không có thật, nên gọi là vô thường.
Ở đây
chúng ta muốn thấy sự thật, phải có cái nhìn sâu sắc, cái nhìn tận cùng ở tận
đằng sau cái im lặng. Người ta có thể lặng im, nhưng khó lặng dừng được.
Và lặng
im có thể nín nhịn một cái gì đó. Như ta có thể ngậm miệng im lặng, nhưng ý vẫn
sôi sục bên trong. Nhưng nếu bên trong ta đã dứt ý- đoạn lìa thì im hay không,
không thành vấn đề nữa.
Cũng như
người ta có thể thấy hư vô bên ngoài nhưng khó thấy hư vô bên trong. Có thể
thấy hư không hình lượng, nhưng không thể thấy được hư không nguyên lý. Vì thế,
sau những nỗi niềm tâm sự bốc khói tan đi, thì không tính sẽ hiện ra.
Những
sắc pháp trong lòng ta có muôn màu ngàn sắc, nếu ta không rọi thấu tận tường,
chúng sẽ kết thành cái đại chủng vật lý.
Mọi tư
duy đều là ảo mộng, những nỗ lực kín đáo từ dục vọng luôn thầm thì ở bên trong,
chúng có âm hưởng rất sâu xa, bên ngoài không bao giờ nghe được âm thanh đó!
Trong
văn chương triết lý thường nói cái ĐANG LÀ. Thấy được cái ĐANG LÀ…tức thấy được
cái vận hành của tâm thức. Thấy cái ĐANG LÀ thì vận hành của tâm thức. Thấy cái
ĐANG LÀ thì không người thấy, không có tướng thấy- CÁI ĐANG LÀ- là năng lượng
vật lý tinh vi nhất. Và cái thấy đó là trung tính, là không tính- là Phật tánh
của tất cả mọi loài.
Đến đây
chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, không có một «chủ thể» mà có thể tồn tại.
Tất cả những mảnh vụn được kết tinh đều bị tan rã. Cái ta rỗng tuếch, nên gọi:
«Không ta không cái tâm đầu. Không hình khác niệm không màu thời gian».
Thời gian là lực co giãn của tư tưởng, thời gian là sự kiện dài ảo tưởng của tư
tưởng, thời gian là sự kéo dài ảo tưởng về tướng trạng vật lý. Thời gian cũng
là những lượn sóng đầy đưa của không gian tâm thức. Một tâm thức đã Giác ngộ
thì không thấy có thời gian – Vì không đi không đến, không sinh thành, không
tận diệt.
Tình
cũng không mà ý cũng không. Tình nơi cảnh xúc ý là chỗ tượng hình. Có ý thì có
dục, dục là do tưởng mà thành. Như kinh có dạy :
Muốn sanh do ý người
Ý do Tưởng mà sanh
Hai tâm đều vắng lặng
Không sắc cũng không hành
Khi viết những điều này là đang viết
những điều này. Khi bạn đọc những điều này là bạn đang đọc những điều này. Chỗ
có thể xảy ra là bạn thấy gì trong tâm bạn. Khi đọc những dòng này- như tôi
đang viết đây là tôi đang thấy gì khi đang viết?
Bạn không nên xác định là tôi nói đúng hay nói
sai. Bạn đừng tìn tưởng tôi hay tin tưởng vào dòng văn đúng, sai hay dở. Dù
rằng bạn có chấp nhận hay phủ nhận, bạn cũng không thêm được gì cho sự thật.Cho
đến bạn phê phán câu văn và tu từ pháp rằng đúng hay sai, hay hay dở đó cũng
chỉ là cái nhai lại mà thôi. Ta hãy tự nghiêm chỉnh lấy chính mình ở bên trong
– yên lặng mà thấy.
Có phải khi đọc những dòng chữ này
trong tâm bạn liền nổi âm thanh? Những âm thanh nổi lên và rung động rồi tan
mất đi. Bạn đừng cho rằng những âm thanh rung lên rồi mất biệt nó sẽ để lại cho
bạn những ký hiệu. Cái gọi là đời sống của chúng ta tất cả từ những ký hiệu này-
dù một cá nhân, một xã hội hay toàn thể nhân loại đồng bởi từ những âm thanh
này mà phát hiện. Nó có tầm quan trọng như vậy tại sao bạn không thấy nó?
Khi bạn nghe một âm thanh bên ngoài,
bên trong liền phát ra một hình tướng. Khi thấy một hình tướng bên ngoài, bên
trong có những âm thanh.
Khởi sắc đó là không gian. Âm thanh
đó là thời gian. Từ khởi sắc và âm thanh đã tạo ra vô vàn khổ, vui, nhân và
quả.
Cái mà nhân loại không chịu nổi gọi
là bất hạnh, là khổ đau, là sinh tử là hủy diệt. Chúng ta ai cũng muốn hạnh
phúc tại sao không hiểu được điều này, cái vui thì qua mau, cái khổ thì trì trệ, cái vui như ly nước,
cái khổ như sa mạc giữa mùa hè. Ánh sáng buổi chiều vàng loài người chỉ là một
thoáng chớp phù du. Đêm dài của mộng mỵ tử, sinh thì miên trường bất tận, đúng
như người bạn lòng chúng ta đã nói. Rồi ta sẽ chìm trong tăm tối bất hạnh. Bóng
huy hoàng mùa hạ quá phù du!
Chúng ta cầm trong tay một lá cờ có
cán, khi nắm được cán rồi chúng ta có thể tùy ý phất lên hay cuốn lại.
Tôi tin các bạn đều có thể là những
nhà khoa học tâm linh. Tại sao? Vì chỉ có các bạn mới tự khám phá ra được những
giao động trong chính mình. Xin các bạn đừng bao giờ mê tín về các từ ngữ như
đạo đức, tôn giáo, công đức, phúc đức, thoại đầu, giác ngộ, minh tâm, kiến
tánh…Khi các bạn nói lên các ngôn ngữ danh từ này bạn sẽ có một xu hướng dữ dội
(nếu không có xu hướng thì tâm phớt tỉnh, lầm lạc, lỳ lợm…) hoặc phát ra trong
lòng tham ảo vọng. Đây là điều tối kỵ của sự thật, nó chỉ có thể cho người rất
mơ hồ, sơ tâm, nó vẫn là một màng mỏng manh trong mặt hồ tâm, khi muốn nhìn vào mặt trăng chân lý.
Khi bạn muốn quan sát một vật thể
trước mắt, nếu bạn muốn biết thật sự về vật thể đó, thì bạn không có quyền đặt
tên so sánh, phê phán khẳng định hay phủ định! Mà bạn phải nhất tâm hợp nhất
cùng vật thể đó, bạn đừng nghĩ rằng mình phải chủ quan hay khách quan. Bạn
không thể chụp mũ nó bằng tất cả một ý kiến nào, bạn không thể lấy những lễ
giáo quen thuộc mổ xẻ nó, bạn không thể dung những đường búa cứng ngắt để đập
tan nó, nghĩa là bạn không cần dùng bất cứ cái gì ngoài mó để nhìn ngắm nó, như
thế bạn có thể thấy được nó.
Nhìn một vật thể bên ngoài, hay nhìn
một chuyển giao bên trong cũng đồng thời như vậy. Chỉ có khác là khi nhìn vật
thể bên ngoài, bạn không thể nhắm mắt lại, nhưng nhìn những vận hành bên trong
thì bạn có thể mở mắt hay nhắm mắt bạn đều có thể trông thấy được.
Bạn cứ mãi lảm nhảm, làm nhàm bằng
những danh từ tu - tập, giác ngộ, đạo đức… mãi, thì chân lý sẽ chia tay cùng
các bạn! Chính không thể gọi tên là chân lý khi một ai đã nhìn thấy nó.
Nếu bạn không chủ trương một điều gì,
bạn không ước vọng, không có muốn trở thành, không bị những danh từ, ngữ vựng
cám giỗ, đồng hóa thì bất cứ lúc nào bạn cũng có thể Giác ngộ được.
Bạn có khả năng biết được Giác ngộ,
không từ bất cứ một phương tiện nào. Nó lớn rộng sát nhập và hợp nhất vào tất
cả hình sắc mà bạn có thể thấy nghe được- nó ngược ngoài cả ý niệm về không
gian nhưng nó không là to lớn, và nó có thể vào bất cứ một vị thể nào mà bạn
gọi là nhỏ nhất, nhưng không được gọi nó là nhỏ. Nó không lớn vì nó không có không
gian, nó không nhỏ vì nó không có thời gian.
Nếu bạn hay ai đó có sự thật, thì
không thể khen hay chê người đó được, vì chính họ cũng không sở hữu! Thông
thường những người giàu kiến thức và những triết gia đều cho lý tưởng Giác ngộ
chân lý là con đường rất vĩ đại cao thượng và một số người của tôn giáo đều tán
dương nó một cách thần thánh.
Điều đó giống như những sinh thể nhỏ
bé sống trong lòng biển, nó tự phân ranh bằng những ý chí của nó biển là bao
la, biển là vĩ đại, là cao thượng. Như mỗi lượn sóng, mỗi hòn bọt, khi gặp nhau
chúng đều khởi lên ý niệm tán dương biển cả. Nếu lượn sóng và hòn bọt chiêm
ngưỡng biển cả chính lúc ấy chúng chìm trong biến dịch, chúng thấy quả thật đại
dương là bao la…Chúng tự diệt sanh trong đêm trường tăm tối.
Con người từ khi chào đời bằng tiếng
khóc tu oa …và cho đến lúc chết đi bằng tiếng nấc nghẹn, hay ré dài của người
thân thuộc. Trong quãng dài của con đường sinh mệnh đó, nếu nhìn theo mắt
thường thì sẽ thấy có hàng trăm ngàn giai đoạn của tiến trình giữa sanh ra và
chết đi, có vô số cái vui, buồn của thịnh, suy, vinh, nhục. Người ta có thể viết
hàng triệu cuốn sách để diễn tả kiếp người. Thi sỹ có thể làm hàng vạn bài thơ
để hân hoan và bi cảm!
Nếu có một kỹ thuật nhìn khác thì có
thể thấy cái hiện hình của khởi đầu (Sinh) và lặn tắt dừng đi (Chết) như một
lằn âm thanh rung dài như một lượng song đa tầm, như một luồng điện chớp giông,
giữa bầu không gian vô tận. Đây không phải hoàn toàn là một tỷ dụ mà là một
thực tế hằng thường trong hiện trường sinh tử. Vì con người là một chuyển động
không dừng từ tâm, sinh, vật lý. Trong cái vận chuyển liên tục với một tốc độ
không lường được như thế, quả thật chỉ là một âm thanh
réo rắc bềnh bồng – quả nhiên như một sáng tạo từ cái vô cùng và vô hạn. Một ví
dụ khác để dễ hiểu hơn. Như một em bé ham vui lấy một ống hút nhún vào bọt xà
phòng và thổi lên giữa khoảng không. Ta sẽ thấy một biến chuyển liên tục trên
chiếc bóng qua sự vận hành liên tục của khí. Khi bóng đủ rơi ra khỏi ống thổi,
nhưng tự thân nó vẫn chuyển không ngừng cho đến lúc tan vỡ! Ta không thấy có một
khoảnh khắc nào dừng lại cả.
Nếu
ta có cách nghe thật thính, ta sẽ nghe được một âm thanh liên tục của khí từ
khi bắt đầu cho đến chấm dứt. Như vậy tất cả những hình thể của con người và vật
thể trong vũ trụ chỉ là một làn khí, một quả bóng xà phòng nhanh chóng vỡ tan,
là tiếng thét dài rung động, đung đưa rồi tan biến… Trước đây nhiều năm khi
phát minh ra điều này tôi viết bốn câu như sau:
Thân
như bọt bóng, tình như mộng
Gió
dạt tâm giông tợ bóng câu
Trí
tối lòng mê đồng vọng nội
Thức
thuyền vướng mãi lệ thương trôi…
Thân người là bóng bọt, tình chỉ là mộng
mị. Tâm thì như khỉ vượn, tập khí thì không ngừng trôi dạt, nổi đùng lên như
giông tố, đẩy hình hài như bóng câu qua cửa sổ.
Trí
(kiến thức) là bóng tối cùng sương mù khói chướng của tình trường, đều
mê man, vần vũ buông trôi, rồi quay về lại với gốc. Thức là con thuyền đẩy đưa
lấn dồn dòng lệ buồn, thành những con sông xuôi dòng trong đêm trường sanh tử…
Chúng ta có thể nào lắng nghe
được những tiếng động từ bên trong, những âm thanh thầm lặng, trước khi chúng
xô ùa ra làn môi chót lưỡi, trở thành vần điệu, những tiếng nói, nụ cười, rồi đồng
hóa và tròng cổ chúng ta như một đại diện phát âm nhân loại.
Các bạn cùng tôi hãy lắng
nghe, lắng nghe cho thật rõ từng giao động âm thầm này khi chúng chưa hình
thành trong kết tụ. Cũng như chúng ta hãy tĩnh lặng mà thấy những hình ảnh, những
hình ảnh tự thâm cung, chúng ta có thể
thấy nó như thấy bóng dáng của người yêu.
Người yêu lãng vãng tợ mờ sương
Tâm
ý “mơ mang” cõi mộng trùng
Dáng
dấp lững lơ tràn lấp lặng
Hình
hài như chạm ngập tư vương
Tiếng
nói nụ cười theo âm hưởng
Đứng
ngồi đi lại hóa tư lường
Có
hình không chất nhìn cho rõ
Mở
mắt chiêm bao hóa mộng trường.
Xin các bạn làm ơn
lưu ý và nhớ rằng những điều viết trên đây không hoàn toàn là một lý thuyết. Nếu
các bạn thấy hứng thú thì có thể lấy nó làm những mũi tên, nó sẽ đưa chúng ta
vào sự thâm hiểm dị thường từ ngõ hẹp cô đơn nơi tự ngã. Chúng ta có thể thấy
những hoang mạc cô liêu, những dòng sông réo rắc, rồi những đỉnh núi trập
trùng.
Chúng ta thấy những áng mây trắng
xóa, giữa bầu trời xanh bất tận, không riêng những loài chim từ chân trời xa sẽ
đến mà đứng lặng yên như những mãnh thú từ rừng sâu hiện diện, cho đến những
loài bò sát rất đa hình dạng…
Tất cả những thượng cầm, hạ thú,
cho đến quỷ ma, muôn loài vạn vật vũ trụ, sơn hà cũng từ một gốc. Gốc đó vô
căn, nhưng chúng ta cần phải thấy, bạn sẽ không tin, không tin thì tình nghi
không đoạn. Thực ra tất cả chúng ta đều luôn có cơ may, lúc nào tai chúng ta
cũng sẵn sàng, mắt chúng ta cũng hiển diện cho đến mũi, lưỡi, thân, ý đều luôn
đợi chờ. Nếu bạn bằng lòng chúng sẽ khởi hành không cần giờ giấc, tùy lệnh của
bạn muốn, chúng đi vào hay đi ra !
Bạn muốn chúng là những người thám
hiểm, chúng sẽ có khả năng. Từ lâu bạn buông trôi những trọng trách này và
chúng biến thành u mê lười biếng. Tất cả mọi loài cho đến các sinh vật không ai
bằng lòng với khổ đau, riêng con người cũng không bằng lòng với ngu dốt đần độn.
Ai cũng cần đến người, nguồn vui và hiểu biết, nhưng chúng ta không được toại
nguyện. Chúng ta không biết cái biến dịch từ đâu? Chúng ta không hiểu động lực
nào của duyên khởi, như chúng ta muốn có thức ăn ngon nhưng lại không biết nghệ
thuật của ẩm thực.
Dù chúng ta có thể biết được phần
nào nhưng hiểu biết đó cũng không thể dẫn đường cho chúng ta vào hạnh phúc, bởi
lẽ ta luôn háo hức và đẩy “cái muốn” lên hàng đầu.
Một con người dù cao thượng tri thức,
hay đạo đức đến mức nào đi nữa, nếu hắn thấy thiếu, tất nhiên trong lòng phải
giao động, còn nếu hắn thấy ”muốn” tâm liền sinh ra gió, niềm vui trong sự
phóng tới luôn là một làn tên đảo ngược, đó là sự nguy khốn khôn cùng; nên Bậc
Chánh Biến Tri có dạy:
“Hỷ
lạc là căn bản của đau khổ
Từ
hữu mà sinh khởi lên
Và
già chết đến loài hữu tình”
Tại sao chúng ta lại sợ đau khổ?
Bây giờ các bạn hãy tự đặt cho mình một câu hỏi: “Tại sao mình lại sợ đau khổ?
Các bạn có thể tự trả lời...Chúng ta không sợ đau khổ mà kỳ thật là sợ mất mát.
Mất mát là gì? Bạn hãy thấy đi: mất mát có phải là sự nương tựa không? Chúng ta
rất sợ mình bị xóa sổ! Ai cũng tưởng mọi người đều sợ mất những cái có: như tài
sản, danh dự, tình yêu, thân quyến. Nếu những vật chất, danh dự, tình yêu, thân
quyến làm cho người ta sợ hãi, thì có những ngừoi có thể họ không có cái gì cả.
Họ không có tình yêu, thân quyến, vật chất, của cải như các Thầy tu, những kẻ lang
thang bụi đời…Họ vẫn sợ, họ sợ một cái gì đó! Như sợ không có tương lai, sợ
không ai biết đến mình, sợ ngày mai và sợ chết. Rồi cho đến những người biết rằng
mình phải bỏ xác thân này, mình phải chết! Nhưng họ vẫn sợ. Họ sợ mình dã làm
việc ác, sợ địa ngục, sợ đời sau…Thế thì thật sự họ sợ cái gì? Bạn hãy tự trả lời
đi!
(Tôi xin tạm dừng chúng ta
cùng nghỉ ngơi và giải trí một chút.)
Thưa các bạn, tôi đang ngồi viết những
dòng chữ này trong một Tịnh thất ở vùng đỉnh 505 của núi Dinh, Động Phong La.
Khi tôi viết đến câu: Bạn hãy tự trả lời đi! Thì trời đổ
cơn mưa lớn, câu trả lời liền phân tán thành những giọt nước từ mái lá đổ xuống
đầu tôi. Trước đây mấy tuần nhiều khoảng không đổ xuống, tôi đã trả lời ngay
trên đầu mình bằng chiếc áo mưa rách! Thế nhưng những câu hỏi mát lạnh ấy cứ từ
trời mà đổ xuống mỗi khi có mưa, cứ khoảng cách dài ba bốn thước thì có một câu
hỏi từ mái nhà vọt xuống! Khi nãy chúng ta giải trí bằng cách lấy vài cái đồ để
hứng bớt, đó là những câu trả lời ( theo lý luận của các triết gia hiện thực nhất).
Bây giờ ngồi lại viết tiếp cùng các
bạn, tôi cũng tự hỏi: “Có sợ không? Rồi sao nữa!...Giờ đây tôi cùng các bạn, chúng
ta sợ cái gì? Tôi xin tạm trả lời bằng lý thuyết rằng: Chúng ta sợ mất bản ngã
đấy! Bản ngã là cái – nó mường tượng như những câu hỏi và câu trả lời của
chúng ta từ nãy giờ đó !
Những câu hỏi và trả lời nằm yên
trong tờ giấy thì không phải là bản ngã. Khi chúng ta nhìn nó như nhìn những cổ
tự cách đây 10 ngàn năm thì cũng chưa có bản ngã, ta đọc lên được nó, đây là
không đúng, nó tượng hình… Nhất định là phải thế, đây là chân lý, không thể
khác hơn, mặt mũi nó đây rồi!
Như các bạn đã biết, con người
không phải sợ đau khổ mà là sợ mất mát, mất mát bản ngã thì con người không còn
lạc thú. Nhưng lạc thú là gì? Phải chăng là những rung động của tiếng kèn không
bao giờ liên tục. Tự mình muốn nghe thấy tiếng giao động của chính mình, nó
luôn luôn cần cái vay mượn bên ngoài. Chính vì mãi vay mượn những dụng cụ không
phải là chính nó, nên nó không thể có sự an toàn như người vừa thổi kèn vừa tự
kéo dài làn hơi mình để san bằng cái trống không của dụng cụ - chính nó còn
không phải là cái thực, thì có cái thực nào ở bên ngoài để nó được an toàn.
Khi khởi đầu (tìm cầu) nó đã là bất
hạnh, thì hậu quả làm sao có hạnh phúc được!. Nó không hiểu được chính nó nên
nó “ Cô đơn”! Nếu chúng ta có được cái dũng khí dẫm đạp lên chính mình, thì
chúng ta sẽ lật ngược trở lại con đường phiêu lưu vô định. Nếu chúng ta không đứng
yên lại trên chính bước chân của mình thì chúng ta không khỏi hoài nghi theo những
dấu chân của chính chúng ta đã đi qua, lòng vòng phía trước. Xin các bạn hãy lắng
nghe từ ngọn nguồn sâu thẳm trong yên lặng, từ sự lắng nghe tất cả giọt sương vừa
hình thành sẽ tự vỡ tan chính nó. Chúng ta có bệnh muốn được đổi thay, muốn một
cái gì mới, nghĩa là chúng ta luôn luôn “ muốn trở thành ”. Sự thật thì
thừa khả năng có những điều như thế! Nhưng nếu dùng cái đã biết sự phân tích từ
kiến thức và chọn lựa thì không thể vượt ra khỏi cái lòng vòng, tráo trở từ sự
biến hóa không lường như một trận pháp mê hồn ảo vọng.
Tôi còn nhớ hồi mới lên vùng núi
Dinh này, vì thích dạo chơi trong rừng, nên một mình dạo sâu vào những nơi có
nhiều cây lớn. Không biết có phải nơi này là “sùng sình ba sọ” mà tôi cứ đi
lòng vòng suốt cả nửa ngày một đêm, mà không ra được, đêm đó không trăng, trong
rừng thì rất tối, trời lại cứ mưa từng chập một, tôi cứ bươn chạy mãi cho đến lả
người, gần như muốn xỉu, quần áo đều rách tươm, rừng âm u, rùng rợn; những giợt
nước từ trên lá cây rơi xuống mặt tôi, nhưng tôi mất mình rồi thiếp đi một lúc
lâu. Khi tỉnh lại, tôi ngồi xếp bằng, tự điều hòa hơi thở, và tôi nghĩ lại:
vòng núi này không phải quá lớn, bởi vì mình cố tìm kiếm con đường thành ra cứ
đi vòng vo mãi. Bây giờ hãy nhắm mắt: một con đường thẳng mà đi, cho dù có chướng
ngại vật gì thì cứ dẫm đạp lên mà đi tới. Khi đã quyết định vậy rồi, tôi liền
nhắm ngay phía trước mà đi, gặp hố thì xuống, gặp đỉnh thì trèo, gặp cỏ gai thì
dẫm lên, hoặc luồn lách mà đi, không bao giờ rẽ qua một lối khác.
Đúng như tôi nghĩ, sau một giờ tôi
liền ra khỏi chướng ngại của vùng núi. Sự quyết định nhìn thẳng để ra khỏi những
quanh co, chướng ngại của rừng cũng đồng như thế, trong sự tu hành, tôi quyết định
nhìn thẳng vào tất cả dao động, vận hành trong tôi; cùng sự lắng nghe mà không
bao giờ chọn, lựa, phân, chia là chính xác. Tôi đã đốt được giai đoạn, vất bỏ lại
tất cả những con đường ngay nơi mảnh đất những phát sinh này, tôi ra khỏi! Khi
đêm tối tự mỏng dần, ánh sáng của ngày đã đến, nó không còn nghi ngờ, hay hoang
mang những gì trong nội tại. Trước kia tôi tìm tòi đọc hàng ngàn những cuốn
sách hay của các triết gia, đạo sư, Thiền sư trên thế giới. Những cuốn sách thật
là mãnh liệt, chói sáng như những ngọn đèn rọi to của những người đi thám hiểm;
có khi nó cũng như những ngọn HẢI ĐĂNG cho những tàu ở giữa biển trong đêm.
Nhưng nếu đem so được với cái ĐANG LÀ bùng vỡ, thấy được dáng những con cá nhỏ
thì thầm trong vòng chảy trôi của vận hành tâm thức, thì những chiếc đèn kia
không cần gì phải phí phạm. Như thế “ngày đã lên”, không riêng gì của ai, mọi
người đều có thể khởi hành trong ánh sáng.
Có những người tầm sư học đạo, họ
có nhiều hoan hỷ, họ thấy mình hiểu biết thật sâu và thật rộng, từ những bộ
kinh sách cổ xưa và kiến thức vĩ đại của vị Thầy. Họ rất thần tượng các vị giảng
sư, các bậc Thầy, họ đạt được “chất lượng” và hình tích của giáo lý – họ hình
thành những trung tâm bên ngoài và bên trong, họ bắt đầu đo đạc chu vi và diện
tích. Họ nắm chắc lần hồi dự trữ và phơi khô chân lý.
Những điều thu hoạch được, họ có thể
phân loại và đóng khung một cách huy hoàng đẹp đẽ, như những pho kinh được in ấn
có kỹ thuật và thẩm mỹ cao; tất cả đều được quy định để có thể so sánh đối chiếu
và khảo tra.
Bất hạnh những con cá được nuôi cẩn
thận trong hồ kiểng, lâu quá rồi, nó không còn biết được những dòng sông xưa và
nước tại trùng dương bể cả, ra sao nữa? Và những con thú đáng thương từ đời thứ
hai trở đi trong vườn bách thú? Chúng khó hình dung được cái quê hương thật của
chúng là những rừng thiêng núi cả xanh thẳm mênh mông như thế nào!
Trong thời gian đã qua, cuộc tiếp
diễn hiện tại và những hy vọng cho ngày mai, tất cả đều tập trung vào mỗi ý
nghĩ đó là sinh tồn. Sinh tồn là sự tồn tại cho cuộc sống. Ta hãy từ tâm sinh,
vật lý, có thật không một góc độ tồn tại nào? Chính tâm của chúng ta thì sớm
vui, chiều khổ. Hoan lạc chưa bao lâu, thì ưu phiền đã kéo đến, giống như trong
câu thơ của Bạch Vân đã miêu tả:
“
Ngày người nói đêm nằm im
Nói
im đều mộng vì tim vẫn buồn…”
Cái
tâm lý thông thường của chúng ta mà không biết động tĩnh thì làm sao mà tác chủ
cho sự việc ở bên ngoài?
Khi
các bạn đọc sách, khi ngang qua những dòng đầy lý thú, một câu một chữ cũng đều
làm ta Giác ngộ, thế cái gì không dùng được? Nó cứ đôn đốc cho ta đọc tiếp và
giở qua trang khác. Tất cả tâm trạng đều có linh tính, nó biết được chỗ hay, dở
giống như vào một vườn hoa, chúng ta thấy toàn là hoa đẹp, ta biết rõ màu này
trắng, màu kia hồng… nhưng không hề dừng lại trên một bông hoa nào, để đi sâu
vào cái vô cùng của nó. Tâm ta đối với vật luôn có những giao động chớp nhoáng,
những giao động làm thành chuyển động, những chuyển động quá nhanh như sự vận
hành của một dòng nước chảy !
Như thế tồn tại ở chỗ nào? Cái mà
ta gọi là sinh tồn, vị trí đó ta muốn chỉ thị cho cái gì? Có sự thật về sự sinh
tồn hay không?
Phần tâm lý này đa dạng và phức tạp
vô cùng, muốn thấy cho tường tận cũng
còn khó, huống gì làm chủ lấy nó. Phần sinh tồn mà các bạn có thể cảm nhận được
ít nhiều đó là sinh lý.
Sinh lý là những xúc động và cảm
giác rất hằng thường trong cuộc sống. Xúc động, cảm giác là mặt nổi. Từ vận
hành nội chất, sinh lý như nước, tâm lý như sóng. Hai mặt cùng xô động trong một
thực thể. Như những người con gái hay con trai tuổi dậy thì trở đi, thì hay có
nhiều ý nghĩ vẩn vơ, chúng luôn mơ mộng, tưởng tượng về những hình bóng, chúng
tự độc xưng những ảo tưởng để xúc động và cảm giác những xúc động này là phần
sinh lý nội thủ tự tri, phần ai thì nấy bám và chỉ mình hiểu mà thôi! Nhưng nếu
ta đặt câu hỏi những xúc động, cảm giác, của những người con trai, con gái này
có phải chúng tự điều động, chúng làm chủ hay không?
Những xúc giác tự sinh lên, hay người
con gái bảo: “ Mày sinh lên để ta được sống!? Có người con trai nào bảo những bộ
phận hãy vươn lên, căng lên tràn lên để ta được sống? Ngay những giao biến, những
cái tự tồn nội thủ của ai, chính hắn còn không hiểu được? Thế mà hắn bảo ôi
sinh lý của ta!
Đây là những điều tế nhị, nếu không
thật sự nhìn ngắm, không thật sự lắng nghe thì không bao giờ hiểu được. Nếu ta
có là một triết gia thượng thặng, một nhà phân tâm học cũng chỉ phải lầm lẫn mà
thôi!
Phần tâm lý thông thường của đời sống
như ăn, ngủ, giải trí… những chi tiết này các bạn có thể chứng nghiệm. Chúng ta
có thể làm chủ trong giấc ngủ không? Ta có thể thấy khi ta đang ngủ không? Nếu
khi mình ngủ mà không biết mình ngủ, hay ai ngủ? Như vậy trong khoảng thời gian
này ai sinh tồn? Nếu mọi người cùng ngủ một giấc dài vô tận thì tiếng nói sinh
tồn đó ở đâu? Nếu trên hành tinh này chỉ có một người, người đó phải là Phạm
Thiên thì người đó có thấy mình sinh tồn không? Nếu người đó không có một kẻ thứ
hai để cạnh tranh, người đó chưa có tình trạng lưỡng phân tâm thức, thì ai đứng
bên ngoài chỉ cho, người biết mình đang sinh tồn thì thấy sẽ chết ngay! Thấy biết
là phân hủy từ ngưng đọng (chết). Sinh tồn là một lực tồn tại để sinh lên cái
“Còn lại là cuộc sống”. Nếu
tôi có ngày giờ thì tôi sẽ làm một quyển tự điển về sinh tồn, sinh tồn không hẳn
là sự sống còn mà chữ sinh tồn còn có vô số nghĩa: Như có thể gọi sinh tồn là
hiện hữu, sinh tồn hiện diện, hiện tiền, là trôi chảy, là lửa, là cái nhìn, là
cái phi thực, là chết, là sa mạc. Chữ sinh tồn có thể liên hệ trong chuyển dịch
thành một ngàn từ biến nghĩa, cho đến mười lăm ngàn từ vẫn còn có thể được.
Như nói sinh tồn mà dịch là chết
thì thật là vô lý. Nhưng chính cái vô lý đó mới là cái có lý. Vì nếu một hiện
tượng nào không biến đổi thì hiện tượng đó không thể thấy tồn tại. Kỳ thật nó
không có ở đó, nó phải chết và sống lại không ngừng. Giữa tốc độ sống và chết bằng
nhau, nên ta mới thấy được. Nhưng cái thấy của ta nằm trong cái chết vì sự vật
hay sinh tồn đều đã qua lâu rồi, thì ta mới thấy, như một vận tốc nhanh, luôn
đi trước âm thanh.
Một dịch từ tượng nghĩa nữa, như
nói: sinh tồn là sa mạc thì danh từ sa mạc này thật là kỳ cục lãng nhách, nó
không dính dáng gì cả? Nhưng chính cái không dính dáng gì với nhau, cái kỳ cục
lãng nhách đó mới là nghĩa chính, vì sao? Chúng ta thấy vô vàn hạt cát không
dính dáng gì với nhau, chúng có sự hiện diện, chúng tồn tại. Các bạn có thể
nhìn móng chân út của mình ở tận phía dưới và một sợi tóc rối ở trên đỉnh đầu.
Tâm Pháp
Vô Nhãn
Vô
nhân là cái bất sinh
Vô
duyên là cái tự hình tượng kia
Mắt
nhìn thành cái phân chia
Tai
nghe thành cái đoạn lìa nhị phân
Có
không thế giới trong ngần
Hữu
vô rỗng suốt không thân không lời
Vô
luân – hồi mộng chơi vơi
Vô
sinh tử huyễn đổi dời thị phi
Lặng
yên là cảnh vô nghi
Không
tâm không pháp còn gì nữa đâu.
TÂM CA
Người Mây Trắng
Lặng ơi, nghe tiếng tâm này
Tâm là rỗng suốt tỏa đầy không gian.
Tâm không ý nghĩ thời gian
Tâm không ấn tượng hàng hàng nhỏ to
Tâm không nào tướng thăm dò
Vô sinh vô diệt còn lo sợ gì
Thấy tâm là thể vô vi
Thấy tâm tâm thấy như như hiện tiền
Thấy tâm như tự thành gương
Soi ra pháp giới vô thường vô chi
Vô thường thường tại phi ly.
Tục chân bất nhị là khi rõ ràng
Tâm là độc nhất minh quang
Tâm là không cảnh không tàn không che
Vô thanh vô động mà nghe
Nhất nguyên vô một không che choáng
gì
Lặng thinh mà chẳng vô vi
Tùng tùy mộng sự thiết thi bản hoài
Bão giông mà chẳng thường lay
Đến đi to nhỏ ở ngay vô hình
Vui buồn tâm sự thường minh
Minh là rõ thấy tướng hình chẳng lay
Chẳng lay chẳng động chẳng ngoài
Vì chung huyễn tướng ở ngay hiện tiền
Thấy duyên là thấy “Không” duyên
Duyên là ảo mộng cõi miền giả hư
Tâm đồng từ cảnh vô tư
Từ không tư sở không người không ta
Vô chung vô thỉ như là
Núi sông vũ trụ cũng là tâm kia
Sắc không tâm cảnh chia lìa
Từ vô minh tướng mà chia phân kỳ
Thấy nghe là pháp vô vi
Hình lay tướng động uy nghi Phật tiền
Còn gì khởi pháp sanh duyên.
Bài giảng trong khóa nhiếp tâm
Năm 2000
HIỂU VÀ KHÔNG HIỂU
Khi nghe
pháp hay nghe một vấn đề gì. Tại sao chúng ta không hiểu? Bây giờ nếu các vị
muốn biết tại sao ta không hiểu thì trước hết có thể nháy mắt vài cái đi, hãy
hít vào một hơi thở cho thật sâu, rồi không rời hơi thở đó mà coi mình đang làm
gì? Nghĩa là mình đang mơ mộng gì, đang nhớ tưởng gì đó!
Khi vừa biết
điều đó, vừa thấy nó thì dừng lại ngay. Và hãy nối lại cái “Đang nghe” là cái
KHÔNG LÀ GÌ CẢ, nếu nó là CÁI GÌ thì không phải là cái đang nghe. CÁI ĐANG
NGHE, là cái TRỐNG KHÔNG mà có biết. Cái TRỐNG KHÔNG đó tỉnh táo đơn giản như
không có việc gì. Cái đang nghe nó như một đứa bé nhưng là đứa bé rất thông
minh. Nếu nó là người lớn thì nó sẽ không hiểu gì, vì nó đầy ắp những món đồ
lỉnh kỉnh… Trong tâm của người lớn luôn tràn đầy những giấc mộng, tâm của trẻ
thơ ít mộng mị hơn nhiều! Nhờ cái rỗng toét mà đứa trẻ có thể dễ dàng hiểu hơn
người lớn!
Hiểu là cái
buổi sáng đầu ngày, nó luôn mới mẻ. Vì thế nếu các vị muốn hiểu xin ĐỪNG BỎ TÂM
MÀ ĐI, Đừng rời nơi tâm dù trong một tích tắc.
Cái hiểu lại
có hai phần: Một phần thực, một phần giả. Phần thực là hiểu bằng cảm, biết qua
sự rung động rồi thăng hoa, vui sướng. Còn cái hiểu giả là nghe sao biết vậy và
gồ lên thành một kiến thức. Kiến thức là thứ lợm cợm làm mất đi nhiều sáng
suốt.
Hiểu “giả” là cái lặp lại, cái nhái
theo, nó chỉ a dua theo những gì mà nó tồn đọng trong lòng. Hiểu giả là cái
hiểu đã qua.” Nó luôn tự cho nó đã hiểu” “ TA ĐÃ HIỂU RỒI !” nếu nghe pháp mà
chúng ta không hiểu thì không bao giờ có tỉnh thức, nghe pháp mà không hiểu thì
dù có nghe suốt một ngàn năm thì cũng không thể giác ngộ được.
Nghe pháp là
để GIẢI THOÁT, nếu chúng ta không rõ là mình hiểu hay không hiểu, thì cái nghe
lại càng thêm ràng buộc. Người xưa nói nghe kinh là để tỉnh mộng. Niệm phật để
xóa trừ đi nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng.
Như thế, thì
nghe pháp là đưa đến TUỆ GIẢI THOÁT, nhưng NIỆM PHẬT LÀ TÂM GIẢI THOÁT. Tuệ
giải thoát thì lối đường sẽ được mở thông ra khỏi ba cõi hai mươi lăm loài. Tâm
giải thoát thì thành PHẬT, huống chi nay ta theo pháp NIỆM PHẬT GIẢ QUÁN này
thì tâm và tuệ đều có đủ, làm sao nói không thể giác ngộ giải thoát được.
Hiểu và
không hiểu là hai cánh cửa đã tháo cả bản lề! Các vị hãy thung dung mà sáu chữ:
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Xin đừng nghi ngờ, nếu có tội gì lão BẠCH VÂN này xin lãnh
hết!
LỜI HẬU
CHỨNG
Khi viết tập sách này tôi cũng có lần thoáng nghĩ : Sách này
mình có thể đọc lại mà không chán, hay có thể đọc nhiều lần. Quả đúng như vậy!
Vì lý do xem lại sửa lỗi và có những lầm lẫn khi in, tôi phải đọc đi đọc lại
đến bốn năm lần: lạ thay, mỗi lần đọc tôi đều thấy mới. Có những đoạn những câu
càng đọc tôi càng thấy tâm mình hiển lộ. Như viên đá thạnh anh tốt càng soi ra
nắng với độ nghiêng rọi khác nhau thì càng thấy chói sáng được nhiều màu, càng
nhìn càng rạng rỡ!
Càng đọc tập
CHỨNG NGHIỆM này càng thấy ra được nhiều rạng sâu sắc của nó! Ta có thói quen
đọc sách như ngựa chạy qua đèn; đọc thật nhanh, thật gấp rồi xếp sách lại; ta
cho là cuốn sách đó đã đọc rồi! Sau đó lại tìm đọc cuốn khác, tới tiếp tục đọc
sách mới mà thật ra không có gì mới cả!
Khi viết
xong tập CHỨNG NGHIỆP này tôi không có tự hào rằng: “ Đây là sách của mình”;
Giống như thưởng thức một món ăn tôi luôn thầm “cảm ơn” và tri ân sâu xa những
liên hệ qua món ăn đó; dù là món ăn của chính tôi làm ra, hay tôi bỏ tiền túi
ra mua.
Khi đọc sách
tôi thường có tâm trạng tri ân, văn cú trong sách soi sáng cho tôi chừng nào
thì lòng tri ân sâu xa của tôi đến chừng ấy, cho đến không gianh giới, thì sự
tri ân chín đỏ biến thành từ tâm. Điều này không có gì khó hiểu “ hiểu thấu thì
thương tới”, “tuệ sáng thì bi sâu”. Từ kinh nghiệm rõ ràng như thế nên tôi mới
viết ra những dòng này.
Nếu có một
cái Ta viết sách, thì cũng có một cái TA đọc sách. Nếu có hai cái TA thì TA
trước và TA SAU sẽ không là nhất thống. Nếu TA trước như làn nước trôi mau thì
TA sau như dòng sông cuộn tới. Tuy vậy mà con nước trước sau không hề biết
nhau. Một đầu bếp giỏi cũng có thể ăn và khen những món do tự tay mình nấu. Người
nghệ sỹ có tài, ngắm lại tác phẩm mình mà khen hay chê.
Tư tưởng là
loại có sự lan xa rộng. Sáng tạo chân chính thì trung thực mà có phần khách
quan, nên tác giả không tự kiêu mà cũng không khiêm nhượng. Trực tâm viết, trực
tâm nhìn và trực tâm phê phán, thì không lỗi ! Như một thầy thuốc, chế được một
loại thuốc để trị liệu cho người, cho mình khi hết bệnh mình có quyền nói : Đây
là thuốc tốt, các bạn hãy uống đi.
Như thang
thuốc trị liệu, sách CHỨNG NGHIỆM này cũng như thế. Bút giả mong rằng các bạn
có duyên cầm sách trong tay hãy đọc nhiều lần, chứng nghiệm nhiều mặt! Các bạn
nên đọc đi đọc lại tập CHỨNG NGHIỆM này nhiều lần, các bạn sẽ rõ ràng hơn vì
sao mà bút giả phải đề nghị như vậy? Trong sự im lặng tỉnh táo, các bạn duyệt
qua tập CHỨNG NGHIỆM nhiều lần, các bạn sẽ không còn hoài nghi sự phát sinh cái
biết của chính mình.
Nếu tập sách
nhỏ bé này có cơ may đến được tay của các bậc cao minh, thì xin thứ cho những
điều khiếm khuyết! Có điều chi cần dạy bảo xin các ngài bổ khuyết cho, hầu khi
in lần sau được đầy đủ hơn, làm cho tuệ giác và bi tâm rộng sâu cùng khắp.
|
Xin chân thành cảm tạ! NGƯỜI MÂY TRẮNG
|
Nhận xét
Đăng nhận xét